Theo các tác giả Franklin Allen & Douglas Gale (“Bubbles and Crisis,” The Economic Journal, Vol. 110(460), pp. 236-255., 2000), hai trạng thái bong bong có thể liên quan trực tiếp tới thị trường bất động sản do tác động của tín dụng như sau.
Thứ nhất, dịch chuyển rủi ro. Đây là khái niệm xuất hiện khoảng giữa những năm 1970, theo đó nhà đầu tư vay tiền để đầu tư vào các tài sản chưa tồn tại. Khi này dịch chuyển rủi ro khiến cho việc định giá vượt trội lên so với giá trị cơ bản của tài sản, sinh rabong bong. Thường bong bong này làm cho khủng hoảng nếu xảy ra sau đó, thì sẽ trầm trọng hơn.
Thứ hai, sự tăng trưởng đột ngột tín dụng gây ra bong bóng. Tăng trưởng nhanh nguồn tín dụng giống như tín hiệu “động viên” người ta quẳng tiền vào các vụ đầu tư rủi ro, ở hiện tại, tác động lên giá tài sản.
Những quá trình có nhiều thay đổi quan trọng, ở tầm cỡ chính sách vĩ mô, theo Allen và Gale, cũng thường gây những tác động rất khó dự báo lên hành vi các trung gian tài chính, quá trình tái tạo tiền và độ ổn định chung toàn hệ thống tài chính.
Mối quan hệ giữa bất động sản và kinh tế vĩ mô
Trong công trình công bố năm 2000, tác giả Karl E. Case (“Real Estate and the Macroeconomy,” Brooking Papers on Economic Activity, Vol. 20(2), pp. 119-162) nghiên cứu vai trò của hai nhóm bất động sản dân sinh và thương mại trong chu kỳ vận động kinh tế của Hoa Kỳ. Nội dung nghiên cứu tập trung vào: (1) vai trò của lĩnh vực bất động sản trong mở rộng tổng cầu của nền kinh tế, (2) các rủi ro của khu vực tài chính đối với việc chấp nhận tài sản thế chấp là bất động sản, và (3) các hệ quả của lạm phát bất động sản với nền kinh tế.
Thị trường nhà ở tại Hoa Kỳ có qui mô rất lớn, tăng giá nhanh chóng và mang lại thu nhập vốn đáng kể cho chủ sở hữu. Tuy vậy, lạm phát nhà ở chỉ đóng góp một tỷ lệ khiêm tốn trong tăng trưởng tiêu dùng của giai đoạn 1995-2000. Thêm nữa, mức tăng giá nhà ở trong những năm cuối thập kỷ 1990 dường như chịu sự điều khiển của các nhân tố cơ bản trong nền kinh tế chứ không phải do đầu cơ hay quán tính tăng giá (như đã diễn ra tại các thị trường trong khu vực). Mức tăng gộp của giá nhà ở đã thu hẹp tương ứng nguồn vốn dành cho thị trường chứng khoán trong 5 năm này. Và cuối cùng, do giá nhà ở rất khó đi xuống và có quán tính khá lớn, có vẻ như suy thoái kinh tế không tạo ra sụt giảm đáng kể với giá nhà ở.
Thị trường bất động sản cầm cố dân sinh tại Hoa Kỳ vào năm 2000 có qui mô khoảng 6,2 nghìn tỷ đô-la và phát triển ngày một phức tạp. Giai đoạn 1995-2000 ghi nhận vận hành hiệu quả và lành mạnh của thị trường bất động sản cầm cố Hoa Kỳ. Rủi ro tài sản cầm cố được phân bổ rộng khắp các công ty bảo hiểm tài sản cầm cố, người sở hữu cácchứng khoán được đảm bảo bằng tài sản cầm cố, và những người cho vay theo danh mục. Mặc dù vậy, vẫn tồn tại những lo ngại về năng lực đa dạng hóa danh mục đầu tư của những người nắm giữ tài sản cầm cố, rủi ro của thị trường phòng hộ, và mức rủi ro ngày một cao hơn của thị trường nợ dưới chuẩn (chừng 5 năm sau, mối lo ngại này đã trở thành một cuộc khủng hoảng tài chính thực sự).
Trong khi đó, giá trị cộng gộp của thị trường bất động sản thương mại vẫn tiếp tục duy trì ở mức cao. Bản chất biến động nhanh chóng của nhóm hàng hóa này trên thị trường bất động sản khiến chúng dễ bị tổn thương trong các thời kỳ sụt giảm của thị trường. Tuy nhiên, thiệt hại với các bất động sản thương mại có thể được giảm bớt dựa trên cơ sở: tốc độ chậm tương đối của các hoạt động xây dựng, cơ chế sở hữu được đa dạng và phân bổ tốt về cấu trúc vốn đầu tư. Những quan sát trên thị trường này cũng chỉ ra rằng các khoản thua lỗ tiềm năng có một tỷ lệ nhỏ tương đối so với mức tăng qui mô vốn hóa của thị trường chứng khoán, thời kỳ từ 1995 đến 2000.
Kết quả nghiên cứu của K. E. Case cũng cho thấy tăng giá nhà ở, tăng tiền thuê nhà (giá thực) và phân khu thu nhập thấp (trong phân bố thu nhập của nền kinh tế) là các tác nhân đáng kể nới rộng khoảng cách thu nhập thực tế giữa nhóm người sở hữu bất động sản và những người thuê sử dụng.
Một câu hỏi quan trọng khác, chưa được Case giải quyết, đó là, sức khỏe của thị trường bất động sản và tài sản cầm cố có thể có tác động thế nào, trực tiếp và gián tiếp, tới những vận động của thị trường chứng khoán (TTCK). Nếu một quan hệ chặt chẽ được kiểm chứng thì một sự sụt giảm mạnh trên TTCK sẽ khai hỏa những khoản thiệt hại trầm trọng với bất động sản và tài sản cầm cố.
Đề cập tới chủ đề này, Edward L. Glaeser (2000) cho rằng không giống như chứng khoán, bất động sản, đặc biệt là nhà ở, vừa là tài sản vừa là tiêu dùng thiết yếu. Đặt giả thiết rằng người ta không có bất kỳ kế hoạch nào về việc thay đổi chỗ ở và cộng đồng đang sinh sống, thì các biến động giá bất động sản có tác động hầu như không đáng kể tới lợi ích ròng của cá nhân. Khi giá bất động sản tăng lên gấp đôi có thể thấy gia tài cũng tăng lên gấp đôi. Nhưng đồng thời, cũng xuất hiện một hiệu ứng ngược chiều. Đó là chi phí để sống trong ngôi nhà cũng đã tăng lên một khoản tương ứng. Giá nhà tăng chỉ mang lại cảm giác về sự giàu có hơn. Trên thực tế, do người sở hữu nhà vẫn cần tiếp tục sinh sống tại đó nên họ không hề giàu lên. Và bởi giá nhà chiếm một tỷ trọng đáng kể trong chi phí sinh hoạt, không thể xem xét biến động giá nhà ở, rộng hơn là giá bất động sản, cùng cách với các thay đổi giá trị của danh mục đầu tư trên TTCK.
Cách tiếp cận kinh tế cổ điền gợi ý rằng độ thỏa dụng cá nhân tăng lên không chỉ trong trường hợp giá bất động sản tăng mà cả khi giá giảm nữa. Lập luận này cho rằng dù giá tăng hay giảm thì người sở hữu bất động sản vẫn có thể sử dụng tài sản đó. Đây là điểm khác biệt rất rõ ràng với nhiều loại tài sản tài chính. Khi giá bất động sản đi xuống, người nắm giữ nó có điều kiện để sử dụng cùng một tài sản với chi phí thấp hơn, và do đó, có độ thỏa dụng cao hơn. Trong trường hợp giá tăng, đáng lý ra người sở hữu phải trả thêm chi phí để sử dụng bất động sản nhưng điều này hiếm khi xảy ra, và như thế, độ thỏa dụng của họ cũng tăng lên. Tuy nhiên, lợi ích có được từ việc sử dụng bất động sản đang tăng giá thường không đáng kể gì so với khản tiền mặt mà người sở hữu bất động sản có thể nhận thêm khi chuyển nhượng tài sản trong giai đoạn cao giá. Người sở hữu bất động sản, có lẽ, thực sự ghi nhận gia tăng lợi ích từ việc tăng giá bất động sản thông qua khả năng tối ưu lại nhu cầu tiêu dùng bất động sản của chính họ tại các mức giá khác nhau. Tăng giá trên thị trường chứng khoán không có tính chất này.
Mức độ vay nợ trong cơ cấu nguồn vốn hình thành sở hữu bất động sản quyết định mức độ thể hiện rõ ràng tới đâu các hiệu ứng trên. Tỷ lệ nợ càng cao thì các tác động càng mạnh và hệ thống ngân hàng là cầu nối giữa vận động của giá bất động sản với các biến động của chỉ số kinh tế vĩ mô. Phần đông các ngân hàng thương mại đều có danh mục bất động sản trong đó các khoản cho vay có thế chấp (bằng bất động sản) thường chiếm tỷ trọng cao. Có một thực tế được chấp nhận phổ biến như một quan điểm ước lệ (dù rằng có thể không hoàn toàn đúng) rằng các cuộc khủng hoảng ngân hàng luôn kết nối tới việc cho vay quá nhiều vào thị trường bất động sản. Xin lưu ý rằng bất động sản chứ không phải chứng khoán hay ngoại hối. Khả năng chứng khoán hóa các bất động sản cầm cố và thế chấp, giúp các ngân hàng xử lý tốt hơn rất nhiều vấn đề này.
Một hình thức khủng hoảng ngân hàng phổ biến khác có nguồn gốc từ việc tăng lãi suất. Lãi suất cao hơn thực sự tạo ra biến cố tại các ngân hàng do phần nhiều tài sản thế chấp và cầm cố có tính chất dài hạn và lãi suất không đổi, trong khi đó, các nguồn vốn của ngân hàng (các khoản huy động vốn như tiền gửi, tiền tiết kiệm) lại có tính ngắn hạn và có lãi suất điều chỉnh. Với nhiều tài sản cầm cố được chứng khoán hóa hơn, sự sai lệch này được giảm nhẹ và thậm chí là biến mất. Các ngân hàng thương mại trở lại chính xác với vai trò một người trung gian trên thị trường tài chính.