Đại Đồng là một xã thuộc tỉnh Hưng Yên
Dân số: | 32.724 người (2025) |
---|---|
Diện tích: | 25,68 km² |
Mật độ: | 1.274 người/km² |
Thành lập: | 16 tháng 6 năm 2025 |
Có thể bạn quan tâm: Bản đồ Huyện Văn Lâm trước và sau sáp nhập 2025
Các xã phường mới sau sáp nhập 2025: Các xã phường cũ trước sáp nhập:Bản đồ online xã Đại Đồng, tỉnh Hưng Yên online
Bạn có thể nhấn vào để xem bản đồ toàn màn hình.
Nguồn dữ liệu ranh hành chính được cập nhật và tổng hợp từ nhiều nguồn bao gồm OpenStreetMap; cộng đồng GIS; các diễn đàn trắc địa, bản đồ và quản lý đất đai tại Việt Nam. Bản đồ này mang tính tham khảo – học tập, không phải là dữ liệu chính thức từ cơ quan nhà nước có thầm quyền. Mọi góp ý, vui lòng để lại bình luận hoặc gửi email. Xin cảm ơn!
Bạn có thể tải về dữ liệu ranh hành chính của xã Đại Đồng, tỉnh Hưng Yên ở bên dưới với 2 định dạng KML hoặc GeoJSON để xem trên Google My Maps, Google Earth, QGIS hoặc các ứng dụng khác.
File vector bản đồ outline xã Đại Đồng sau sáp nhập
Lịch sử hình thành
Trước đây, Đại Đồng là một xã thuộc huyện Mỹ Văn.
Ngày 24 tháng 7 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 60/1999/NĐ-CP về việc chia huyện Mỹ Văn thành 3 huyện: Mỹ Hào, Văn Lâm và Yên Mỹ. Xã Đại Đồng trực thuộc huyện Văn Lâm.
Ngày 18 tháng 2 năm 2025, HĐND tỉnh Hưng Yên ban hành Nghị quyết số 554/NQ-HĐND về việc thành lập thôn Xuân Đông trên cơ sở thôn Xuân Phao và thôn Bùng Đông.
Ngày 16 tháng 6 năm 2025, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1666/NQ-UBTVQH15 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã của tỉnh Hưng Yên năm 2025. Theo đó, sắp xếp toàn bộ diện tích tự nhiên, quy mô dân số của các xã Việt Hưng, Lương Tài, Đại Đồng, phần còn lại của xã Đình Dù sau khi sắp xếp theo quy định tại khoản 27 Điều này và phần còn lại của xã Lạc Đạo sau khi sắp xếp theo quy định tại khoản 28 Điều này thành xã mới có tên gọi là xã Đại Đồng.
Xã Đại Đồng là một xã nằm ở phía bắc tỉnh Hưng Yên. Ngoài sản xuất nông nghiệp, trồng cây lương thực (đồng trũng) thì xã còn có một số ngành khác thuộc lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp trong đó phải kể đến nghề đúc đồng ở thôn Lộng Thượng (hay còn gọi là làng Rồng) với các sản phẩm chủ yếu là đồ thờ. Thêm vào đó một số hộ ở dải thôn từ Văn Ổ xuống tới phía giáp xã Chỉ Đạo còn có nghề thu gom phế liệu (sắt vụn, đồng, chì, nilon, palet, gỗ phế liệu… Đã có một số cụm xưởng phục vụ nghề của xã ở xa khu dân cư để tránh ô nhiễm môi trường. Mặc dù xa trung tâm huyện nhưng cũng nhờ nghề phụ mà kinh tế hộ gia đình của xã cũng gần xấp xỉ mức trung bình của huyện và một số xã được hưởng lợi từ khu công nghiệp.
Đại Đồng còn nổi tiếng với ngôi chùa Nôm cổ kính, cây cầu đá gắn bó với nhiều chiến công oanh liệt của ông cha ta. Ngoài ra, còn rất nhiều danh lam thắng cảnh, những ngôi đình chùa, nhà thờ tổ và những cánh đồng xanh bát ngát luôn tạo cảm giác thỏa mái cho những ai đặt chân lên mảnh đất oai hùng này.
Cụm di tích làng Nôm bao gồm quần thể: làng cổ, kiến trúc nhà cổ, ao làng, chùa Nôm (Linh Thông Cổ Tự), cầu Đá, chợ Nôm… có giá trị quý về văn hóa, lịch sử, nghệ thuật. Ngày nay cụm quần thể làng Nôm được khai thác du lịch. Quần thể làng Nôm đã được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích cấp quốc gia.
Ở Hưng Yên, 3 trong 5 làng nghề đúc đồng tạo nên làng Ngũ Xã (Hà Nội) là châu Mỹ, Long Thượng (xã Đại Đồng) và Đông Mai (xã Chỉ Đạo) thuộc huyện Văn Lâm đều thờ ông thánh tổ Nguyễn Minh Không với tư cách tổ nghề đúc đồng của các làng nghề này.
Đình làng Đại Từ thời Thái sư Lưu Cơ có công lập làng chiêu dân đánh dẹp sứ quân Lý Khuê. Làng Đại Từ (Văn Lâm, Hưng Yên) là nơi tướng Lưu Cơ đã đóng quân để xuất binh đi bình định sứ quân Lý Khuê. Dân làng, trai đinh Đại Từ đã ủng hộ và tham gia nghĩa quân.
Kiến trúc Đình Đại Từ xưa được làm theo kiểu chữ nhất hậu chữ đinh. Phía trước tòa tiền đường là hệ thống cột đồng trụ mang dáng vẻ uy nghi có gắn nghê chầu. Tòa tiền đường 5 gian bằng gỗ lim, mái lợp ngói nam, bộ vì kiểu thượng chồng rường giá chiêng, hạ kẻ bẩy; trên các con rường chạm lá lật, bẩy chạm tứ linh, tứ quý. Nối liền tiền đường là trung đường và hậu cung xây kiểu chữ đinh, mái cong lợp ngói mũi hài. Trung đường và hậu cung có kiến trúc và chạm khắc mang phong cách thời Hậu Lê. Năm 1948 quân xâm lược Pháp lập vành đai trắng, đã đổ dầu đốt phá toàn bộ ngôi đình.
Sau khi hòa bình lập lại nhân dân địa phương người góp của, người góp công xây dựng lại ngôi đình trên nền móng xưa với quy mô vừa phải. Di tích Đình Đại Từ đã được Nhà nước đã xếp lịch sử. Năm 2013 nhân kỷ niệm 1000 năm ngày tạ thế của Thái sư Tuy Lộc Đại Vương Lưu Cơ, thấy khu di tích đã quá xuống cập, Lưu Tộc Việt Nam đã đề xuất được cùng địa phương tu bổ, tôn tạo lại Đình Đại Từ như khởi công xây dựng hạng mục hậu cung và đúc tượng. Công trình hoàn thành vào dịp kỷ niệm 1005 năm ngày tạ thế của Thái sư Tuy Lộc Đại Vương Lưu Cơ.
Nghè Văn Ổ thờ bốn vị thành hoàng làng là tướng nhà Đinh gồm Lý Đài Công, Đặng Mộ Nương, Lý Trâu Công, Lý Quốc Công. Tư liệu Hán Nôm tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm và câu đối, văn bia hoành phi ở địa phương khẳng định: Các vị bản cảnh thành hoàng có công lao lớn với vua, với dân, xứng với các chữ: “Sống là trung thần, hóa là linh thần”, danh thơm trường tồn cùng sông núi, đạo đức sáng cùng mặt trăng, mặt trời.
Thần tích kể, thời 12 sứ quân có gia đình ông Lý Miên, vợ là Nguyễn Thị Nhân tiên tổ bản quán ở Long Hưng, Thái Bình; mấy đời trước gia đình họ Lý lánh nạn đến trang Xuân Phao, Văn Ổ, thuộc xã Lộng Đình, tổng Đại Từ, huyện Tế Giang, phủ Thuận An, xứ Kinh Bắc. Ông bà làm thuốc chữa bệnh cứu người. Cùng khi ấy có nhà họ Đặng ở thôn Cự Đình, xã Lộng Đình tuổi cao mà chưa sinh nở. Hai gia đình thành tâm đến chùa Tháp Cục Thiền của làng lễ Phật cầu tự. Cảm nghĩa, trời cho người của thiên đình đầu thai vào hai gia đình họ Lý, họ Đặng. Giờ Dần ngày mồng 4 tháng 1 năm Giáp Thìn, hai nhà cùng sinh con. Nhà họ Lý sinh con trai, hình hài uy nghi, đặt tên là Lý Đài. Nhà họ Đặng sinh con gái, mặt sáng như gương, mắt đẹp như sao trời, đặt tên là Đặng Mộ. Đến năm Bính Ngọ, giờ Dần, ngày 3 tháng 3, bà Nhân sinh tiếp hai con trai, mặt vuông, tai lớn đặt tên là Lý Trâu và Lý Quốc. Hai người đều có năng khiếu về văn, võ. Ba anh em theo thầy học kinh sách hơn 10 năm. Đài Công và Mộ Nương đến tuổi trưởng thành được cha mẹ hai nhà cho kết duyên chồng vợ. Khi cha mẹ qua đời, Đài Công và hai em được bố mẹ Mộ Nương đón về nuôi dưỡng che chở. Được 2 năm thì có loạn 12 sứ quân. Đứng lên dẹp loạn 12 sứ quân là Đinh Bộ Lĩnh. Đinh Bộ Lĩnh đã sai Đại tướng quân Nguyễn Bặc về đạo Tế Giang tìm địa điểm quân sự. Nghe tin Nguyễn Bặc nghỉ ở làng, ba anh em Đài Công mang hơn 30 nghĩa binh là dân các thôn Lộng Đình, Trình Xá, Cát Lư do mình tuyển chọn đến xin làm gia thần. Ba anh em đem binh mã theo Nguyễn Bặc về Hoa Lư. Đinh Bộ Lĩnh thử tài, biết các ông là người tài năng, mưu lược xuất chúng liền giao chức vụ Chưởng lĩnh tả đạo binh giới kiêm Tham tán mưu sự, sai ba ông chỉ huy hùng binh thủy bộ diệt trừ các sứ quân. Đất nước trở lại thái bình. Đinh Tiên Hoàng lên ngôi Hoàng đế mở yến tiệc, phong thưởng cho bề tôi. Đài Công làm Thái bảo tiền quân, Châu Công làm Thái bảo trung quân, Quốc Công làm Thái bộc hậu quân; thưởng kim tiền, gấm vóc hơn 50 cân, cho về quê vinh qui bái tổ. Ba ông về quê lễ bái cung lăng, chùa miếu, tiên tổ, cha mẹ.
Sau đó, Vua vời về triều giao chức Trưởng ấn Thái tể (Binh Bộ Thượng thư), chức Thái bộc (Lại Bộ Thượng thư); giao Nguyễn Bặc làm Định quốc công, Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân. Sau 3 tháng thì xảy ra vụ án Đỗ Thích giết vua. Ngay hôm đó, ba ông cùng Nguyễn Bặc chỉ huy quân vây bắt và chém Đỗ Thích, lập con thứ là Đinh Toàn lên ngôi. Sau vị vua này bị Lê Hoàn phế, gọi là Phế Đế. Ba ông cáo bệnh xin về quê chữa bệnh, trong lòng vẫn oán giận Lê Hoàn tư thông với Hoàng hậu, lấn át ngôi vương. Ba ông hưởng ứng hai bậc lão thần là Nguyễn Bặc, Đinh Điền đem năm ngàn quân chia làm 2 đạo thủy bộ tiến về kinh sư diệt Lê Hoàn. Các ông thúc quân đại chiến với Lê Hoàn hơn 10 trận, biết không thắng được liền dẫn quân về quê, đóng trong chùa thôn Xuân Phao, Văn Ổ. Sau các ông lại cho nghĩa binh các thôn xã về quê, động viên, ban thưởng quân tướng, phủ dụ nhân dân. Quân Lê Hoàn đến vây chùa. Ba ông biết không địch nổi, bèn cưỡi tuấn mã, cầm kiếm phá vòng vây chạy thẳng đến sông Tiểu Giang, tức là Cầu Châu thuộc địa phận thôn Văn Ổ, xã Lộng Đình. Sông rộng, lại không có cầu nên ngựa chùn chân. Quân Lê Hoàn đuổi đến vây bốn mặt, ba ông hóa ngay ở khu đất bên sông. Phu nhân hay tin chồng đã hóa bèn rút gươm tự vẫn. Lê Hoàn truyền lệnh cho dân chúng ngay hôm ấy đắp mộ, làm lễ an táng ba ông và Đặng Mộ Nương ở Văn Ổ theo nghi thức thiên tử; ban vàng, lụa, gấm vóc, lập đền miếu thờ cúng. Dân làng Xuân Phao, Văn Ổ lập đền thờ ở lăng mộ an táng. Bảy trang của Lộng Đình cùng Trình Xá, Cát Lư được phụng thờ đền nơi lăng mộ.
Đình, miếu thờ bốn vị thành hoàng làng ở các thôn thời Tiền Lê thuộc tổng Đại Từ, huyện Văn Lâm, nay là các thôn Văn Ổ, xã Đại Đồng, thôn Trịnh Xá (xưa là Trình Xá), thôn Cát Lư (Cát Con) xã Chỉ Đạo, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Di tích còn lưu giữ nhiều cổ vật như bia đá, kiệu rước 24 người khiêng, bản thần tích chép công trạng bốn vị thành hoàng làng, những câu đối hoành phi lưu truyền tự cổ.
Các tuyến, hệ thống giao thông quan trọng ở xã Đại Đồng:
- Tỉnh lộ 385: từ Quốc lộ 5 (xã Như Quỳnh) đi qua xã Đại Đồng sang địa phận xã Cẩm Giàng (thành phố Hải Phòng)
- Tỉnh lộ 196: nối tỉnh lộ 385 (ngã tư dốc Nghĩa, xã Lạc Đạo) với tỉnh lộ 281 tại cầu Gáy (giáp ranh phường Ninh Xá, tỉnh Bắc Ninh)
- Đường mới mở từ tỉnh lộ 385 đi gần chùa Nôm đến giáp cầu Gáy
- Đường sắt Hà Nội – Hải Phòng
- Hệ thống xe buýt: HY01 (đã dừng hoạt động)
- Giới thiệu xã Đại Đồng, Hưng Yên Lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2015 tại Wayback Machine
Vị trí địa lý xã Đại Đồng
Xã Đại Đồng nằm ở cực Đông Bắc của tỉnh Hưng Yên, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 30 km, có vị trí địa lý:
- Phía đông giáp xã Cẩm Giàng của thành phố Hải Phòng.
- Phía tây giáp xã Lạc Đạo.
- Phía nam giáp phường Thượng Hồng và phường Mỹ Hào
- Phía bắc giáp các phường Trạm Lộ và Ninh Xá của tỉnh Bắc Ninh.
Bản đồ giao thông xã Đại Đồng
Xã Đại Đồng nhìn từ vệ tinh
Xem thêm
Bản đồ 34 tỉnh thành mới của Việt Nam sau sắp xếp 2025:- TP Hà Nội
- TP HCM
- TP Cần Thơ
- TP Đà Nẵng
- TP Hải Phòng
- TP Huế
- An Giang
- Bắc Ninh
- Cà Mau
- Cao Bằng
- Đắk Lắk
- Điện Biên
- Đồng Nai
- Đồng Tháp
- Gia Lai
- Hà Tĩnh
- Hưng Yên
- Khánh Hòa
- Lai Châu
- Lâm Đồng
- Lạng Sơn
- Lào Cai
- Nghệ An
- Ninh Bình
- Phú Thọ
- Quảng Ngãi
- Quảng Ninh
- Quảng Trị
- Sơn La
- Tây Ninh
- Thái Nguyên
- Thanh Hóa
- Tuyên Quang
- Vĩnh Long