Colombia (IPA: [koˈlombja] ( nghe)), tên chính thức là Cộng hòa Colombia (tiếng Tây Ban Nha: República de Colombia; IPA: [re’puβ̞lika ð̞e ko’lombja] ( nghe)) là một quốc gia tại Nam Mỹ. Colombia giáp Venezuela và Brasil về phía đông; giáp Ecuador và Peru về phía nam; giáp Đại Tây Dương phía bắc, qua Biển Caribe; và phía tây giáp Panama và Thái Bình Dương. Colombia là một nước lớn và đa dạng, lớn thứ 4 Nam Mỹ (sau Brasil, Argentina và Peru), với diện tích hơn gấp bảy lần New England; gấp đôi Pháp; chỉ nhỏ hơn một chút so với Arizona, California, Oregon và Washington cộng lại. với dân số 50 triệu người. Di sản văn hóa phong phú của Colombia phản ánh ảnh hưởng của các nền văn minh Amerindian khác nhau, định cư Châu Âu, nô lệ Châu Phi và nhập cư từ Châu Âu, Trung Đông và Đông Á. Tiếng Tây Ban Nha là ngôn ngữ chính thức của quốc gia, bên cạnh đó có hơn 70 ngôn ngữ được sử dụng.
Colombia đã có nhiều người dân bản địa sinh sống từ ít nhất 12.000 BCE, bao gồm Muisca, Quimbaya và Tairona. Người Tây Ban Nha đã hạ cánh đầu tiên tại La Guajira vào năm 1499 và vào giữa thế kỷ 16 thuộc địa của khu vực, thành lập Vương quốc mới của Granada, với Santafé de Bogotá là thủ đô của nó. Độc lập khỏi Đế quốc Tây Ban Nha đã đạt được vào năm 1819, với những gì ngày nay Colombia đang nổi lên là các tỉnh bang New Granada. Quốc gia mới đã thử nghiệm chủ nghĩa liên bang với tư cách là Liên minh Granadine (1858), và sau đó là Hoa Kỳ Colombia (1863), trước khi Cộng hòa Colombia cuối cùng được tuyên bố vào năm 1886. Panama tách ra vào năm 1903, dẫn đến biên giới hiện tại của Colombia. Bắt đầu từ những năm 1960, đất nước này đã phải chịu một cuộc xung đột vũ trang và bạo lực chính trị cường độ thấp không đối xứng, cả hai đều leo thang vào những năm 1990. Từ năm 2005, đã có sự cải thiện đáng kể về an ninh, ổn định và pháp trị, cũng như sự tăng trưởng và phát triển kinh tế chưa từng có.
Colombia là một trong mười bảy quốc gia đa dạng nhất thế giới và có mức độ đa dạng sinh học cao thứ hai trên thế giới. Lãnh thổ của nó bao gồm rừng nhiệt đới Amazon, vùng cao, đồng cỏ và sa mạc, và đây là quốc gia duy nhất ở Nam Mỹ có bờ biển và đảo dọc theo cả đại dương Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. Colombia là thành viên của các tổ chức toàn cầu và khu vực lớn bao gồm Liên hợp quốc, WTO, OECD, OAS, Liên minh Thái Bình Dương, Cộng đồng Andean và Đối tác toàn cầu của NATO. Nền kinh tế đa dạng của nó là lớn thứ ba ở Nam Mỹ, với sự ổn định kinh tế vĩ mô và triển vọng tăng trưởng dài hạn thuận lợi.
Bản đồ Colombia online
Bạn có thể nhấn vào để xem bản đồ toàn màn hình.
Colombia ở đâu? Bản đồ vị trí Colombia
Colombia là một quốc gia thuộc khu vực Nam Mỹ của Châu Mỹ
Bản đồ hành chính Colombia
Lịch sử
Tiền Colombo
Khoảng năm 10000 trước Công Nguyên, các xã hội săn bắn hái lượm đã tổn tại gần nơi hiện là Bogotá (tại “El Abra” và “Tequendama”) họ buôn bán với nhau và với các nền văn hóa sống dọc Châu thổ Sông Magdalena. Bắt đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, các nhóm người thổ dân đã phát triển các hệ thống chính trị gồm các “cacicazgo” với một cơ cấu quyền lực hình kim tự tháp đứng đầu là các tù trưởng. Bên trong Colombia, hai nền văn hóa có hệ thống cacicazgo phức tạp nhất là Tayrona tại vùng Caribe, và Muisca tại các cao nguyên quanh Bogotá, cả hai đều thuộc ngữ hệ Chibcha. Người Muisca được coi là đã sở hữu một trong những hệ thống chính trị phức tạp nhất tại Nam Mỹ, sau người Inca.
Thuộc địa
Những nhà thám hiểm Tây Ban Nha lần đầu khám phá vùng đất ven biển Caribe vào năm 1500 dưới sự lãnh đạo của Rodrigo de Bastidas. Christopher Columbus đã tới gần Caribe năm 1502. Năm 1508, Vasco Nuñez de Balboa bắt đầu chinh phục lãnh thổ này qua vùng Urabá. Năm 1513, ông cũng là người châu Âu đầu tiên khám phá Thái Bình Dương mà ông gọi là Mar del Sur (hay “Biển phương Nam”), con đường trên thực tế sẽ đưa những kẻ chinh phục Tây Ban Nha tới Peru và Chile. Năm 1525, thành phố châu Âu đầu tiên tại lục địa châu Mỹ được thành lập, là Santa María la Antigua del Darién tại Khu Chocó ngày nay. Dân số chủ yếu sống trên vùng này là hàng trăm bộ tộc Chibchan và “Karib”, hiện được gọi là dân tộc Caribe, và người Tây Ban Nha đã dùng chiến tranh để chinh phục họ, bệnh dịch, công cuộc khai thác và chính cuộc chinh phục này đã đưa lại một thảm họa về nhân chủng làm giảm sút số lượng người bản xứ. Ở thế kỷ mười sáu, người châu Âu bắt đầu đưa nô lệ từ Châu Phi tới.
Độc lập
Từ đầu những giai đoạn Chinh phục và Thuộc địa, đã có nhiều phong trào phản kháng chống lại ách cai trị Tây Ban Nha, đa số chúng đều bị đàn áp hay quá yếu ớt để có thể mang lại sự thay đổi. Phong trào phản kháng cuối cùng, với mục tiêu đòi độc lập từ Tây Ban Nha, nổ ra khoảng năm 1810, sau khi St. Domingue giành độc lập năm 1804 (Haiti ngày nay), và nước này chỉ có thể cung cấp sự hỗ trợ nhỏ nhoi cho những lãnh đạo phong trào là: Simón Bolívar và Francisco de Paula Santander. Simón Bolívar đã trở thành tổng thống đầu tiên của Colombia/ Fransisco de Paula Santander là Phó tổng thống, và khi Simón Bolívar rút lui, Santander đã trở thành tổng thống thứ hai của Colombia. Cuộc nổi dậy cuối cùng đã giành thắng lợi năm 1819 khi lãnh thổ Phó vương quốc Tân Granada trở thành nhà nước Cộng hòa Đại Colombia được tổ chức thành một Liên minh cùng Ecuador và Venezuela (Panama từng là một phần của Colombia).
Tranh giành chính trị
Sự chia rẽ chính trị và lãnh thổ trong nội bộ đã dẫn tới sự ly khai của Venezuela và Quito (Ecuador ngày nay) năm 1830. Ở thời điểm này, cái gọi là “Khu Cundinamarca” đã chấp nhận cái tên “Nueva Granada”, và giữ nó cho tới tận năm 1856 khi nó trở thành “Confederación Granadina” (Liên bang Granadine). Sau một cuộc nội chiến kéo dài hai năm năm 1863, “Liên bang Colombia” được thành lập và tồn tại tới năm 1886, khi cuối cùng đất nước này trở thành Cộng hòa Colombia. Sự chia rẽ nội bộ tiếp tục diễn ra giữa các lực lượng chính trị lưỡng đảng, thỉnh thoảng gây ra những cuộc nội chiến rất đẫm máu, nổi bật nhất là cuộc nội chiến nghìn ngày (1899 – 1902) cùng với những ý đồ của Mỹ nhằm thiết lập ảnh hưởng trong vùng (đặc biệt trong việc xây dựng và quản lý Kênh đào Panama) đã dẫn tới sự ly khai của Khu Panama năm 1903 và lãnh thổ này đã trở thành một quốc gia. Colombia sa lầy vào cuộc chiến tranh kéo dài một năm với Peru về tranh chấp lãnh thổ liên quan tới Khu Amazonas và thủ phủ Leticia của nó.
La Violencia
Một thời gian ngắn sau đó, Colombia có nền chính trị khá ổn định, và nó bị ngắt quãng bởi một cuộc xung đột đẫm máu xảy ra trong khoảng thời gian giữa cuối thập kỷ 1940 và đầu thập kỷ 1950, một giai đoạn được gọi là La Violencia (“Bạo lực”). Nguyên nhân của nó là sự căng thẳng gia tăng giữa hai đảng chính trị hàng đầu, cuối cùng đã bùng phát thành bạo lực sau vụ ám sát ứng cử viên Tổng thống Tự do Jorge Eliécer Gaitán ngày 9 tháng 4 năm 1948. Vụ ám sát này đã gây ra những cuộc bạo động tại Bogotá và được gọi là El Bogotazo, tình trạng bạo lực trong những cuộc bạo động lan tràn khắp đất nước và làm thiệt mạng ít nhất 180.000 người Colombia. Từ năm 1953 tới 1964 bạo lực giữa hai đảng chính trị giảm bớt thứ nhất bởi Tổng thống Gustavo Rojas Pinilla đã mất chức Tổng thống Colombia trong một cuộc đảo chính, cuộc đàm phán với phe du kích, và sự xuất hiện của hội đồng quân sự của Tướng Gabriel París Gordillo.
Mặt trận quốc gia
Sau khi Rojas đã mất chức, hai đảng chính trị Đảng Bảo thủ Colombia và Đảng Tự do Colombia đã đồng ý thành lập một “Mặt trận Quốc gia,” theo đó hai đảng Tự do và Bảo thủ sẽ cùng điều hành đất nước. Chức tổng thống sẽ được thay thế lần lượt giữa hai đảng với nhiệm kỳ 4 năm trong vòng 16 năm tiếp diễn; hai đảng sẽ chia sẻ quyền lực tương đương ở mọi chức vụ nhà nước. Mặt trận Quốc gia đã chấm dứt “La Violencia”, và chính phủ Mặt trận Quốc gia nỗ lực tiến hành các cuộc cải cách kinh tế, xã hội sâu rộng cùng với sự hợp tác của Liên minh vì Tiến bộ. Cuối cùng, những mâu thuẫn giữa các chính quyền Bảo thủ và Tự do nối tiếp nhau khiến kết quả không được như ý muốn. Dù có những tiến bộ ở một số lĩnh vực, nhiều vấn đề bất công xã hội và chính trị tiếp diễn và các nhóm du kích như FARC, ELN và M-19 chính thức thành lập chiến đấu chống chính phủ và các cơ quan chính trị với những ảnh hưởng từ các học thuyết của cuộc Chiến tranh lạnh.
Xung đột vũ trang Colombia
Cuối thập niên 1970 và trong suốt thập niên 1980, 1990 những tổ hợp ma tuý (drug cartel) giàu mạnh và đầy tính bạo lực xuất hiện, nổi tiếng nhất là Medellín Cartel (dưới sự chỉ huy của Pablo Escobar) và Cali Cartel, trong một giai đoạn đã gây ảnh hưởng tới chính trị, kinh tế và xã hội tại Colombia. Những tổ hợp này cũng đã tài trợ tiền bạc và gây ảnh hưởng tới các nhóm vũ trang bất hợp pháp và phe phái chính trị. Một số bên chống đối lại đã liên minh với các nhóm du kích tạo ra hay gây ảnh hưởng tới các nhóm bán quân sự.
Để thay thế hiến pháp năm 1886 trước đó, một hiến pháp mới đã được phê chuẩn năm 1991 (Hiến pháp Colombia năm 1991), sau khi được Hội đồng Lập hiến Colombia soạn thảo. Hiến pháp được thêm vào những điều khoản quan trọng về chính trị, sắc tộc, nhân quyền và bình đẳng nam nữ, chúng sẽ dần được thực hiện, dù tình trạng phát triển không đều, tranh cãi, và tụt hậu vẫn tồn tại. Hiến pháp mới cũng ngăn cấm hành động dẫn độ người mang quốc tịch Colombia sang Hoa Kỳ, các tổ hợp ma túy đã tiến hành vận động hành lanh tại Nghị viện và đưa ra một chiến dịch đe dọa vũ lực nhằm ngăn chặn sự phê chuẩn hành động dẫn độ. Nhiều cuộc tấn công khủng bố và hành quyết kiểu mafia đã diễn ra. Các tổ hợp ma túy cũng đã tìm cách gây ảnh hưởng tới chính phủ cũng như cơ cấu chính trị Colombia, như trường hợp vụ sandal Quy trình 8000.
Trong những thập kỷ gần đây nước này tiếp tục gặp phải khó khăn từ ảnh hưởng của các hoạt động buôn bán thuốc phiện và những cuộc chiến tranh du kích như của FARC, và các nhóm bán quân sự như AUC (hiện đã được giải ngũ nhưng một số thành viên vẫn còn hoạt động) cùng với các phe nhóm nhỏ khác đã tham dự vào cuộc xung đột vũ trang đẫm máu. Các tổ hợp ma túy giàu mạnh đã giúp Colombia cân bằng thương mại bằng cách tạo ra một luồng thu ngoại tệ lớn và ổn định, chủ yếu là dollar Mỹ. Mặt khác, các thủ lĩnh ma túy cũng làm bất ổn định chính phủ. Những cuộc nổi loạn của các nhóm khác nhau dẫn tới tình trạng sử dụng hành động bắt cóc và buôn lậu ma tuý để kiếm tiền hoạt động, chúng thường hoạt động tại các vùng nông thôn rộng lớn và hẻo lãnh và thỉnh thoảng có thể gây thiệt hại tới các hệ thống viễn thông và giao thông giữa các vùng. Từ đầu thập niên 1980, những nỗ lực nhằm đàm phán một thỏa thuận giữa chính phủ và các phe phiến loạn khác nhau đã được tiến hành, có trường hợp thành công có trường hợp chỉ một phần phe nổi dậy chịu giải giáp. Một trong những nỗ lực gần đây nhất đã diễn ra khi chính quyền của Tổng thống Andrés Pastrana Arango, đàm phán với FARC trong giai đoạn 1998 và 2002.
Cuối thập niên 1990, Tổng thống Andrés Pastrana đã đưa ra một sáng kiến gọi là Kế hoạch Colombia, với hai mục tiêu chấm dứt xung đột vũ trang và thúc đẩy một chiến lược chống ma tuý mạnh. Yếu tố gây tranh cãi nhất của Kế hoạch là chiến lược chống ma tuý, gồm việc tăng hoạt động phun thuốc tiêu diệt cây coca từ trên không. Hành động này bị nhiều phe phái phản đối, họ cho rằng phun thuốc diệt cây từ trên không cũng có thể gây hại tới các loại cây khác, và gây ra những hậu quả xấu tới sức khỏe người dân. Những lời chỉ trích sáng kiến này cũng cho rằng kế hoạch thể hiện một cách tiếp cận mang tính quân sự cho các vấn đề nảy sinh từ tình trạng bất bình đẳng trong xã hội.
Trong thời cầm quyền của Tổng thống Álvaro Uribe, người được bầu với lời hứa hẹn áp dụng các biện pháp quân sự với FARC và các nhóm tội phạm khác, một số chỉ số an ninh đã được cải thiện, như số vụ bắt cóc giảm (từ 3700 năm 2000 xuống còn 800 năm 2005) và các vụ giết người cũng giảm hơn 48% từ tháng 7 năm 2002 tới tháng 5 năm 2005. Có ý kiến cho rằng những thành công này đã khuyến khích phát triển kinh tế và ngành du lịch.
Những nhà phân tích và phê bình bên trong Colombia đồng ý rằng đã có một số tiến bộ trong nhiều lĩnh vực như đề cập ở trên, nhưng lý do mang lại thành công vẫn chưa được đồng thuận và tính chính xác của những con số cũng là một vấn đề. Một số phe đối lập đã chỉ trích chiến lược an ninh của chính phủ, cho rằng chúng chưa đủ để giải quyết các vấn đề phức tạp tại Colombia và rằng nó đã góp phần tạo nên một môi trường thích hợp cho sự tiếp diễn của một số vụ vi phạm nhân quyền.