Bản đồ Palestine

Nhà nước Palestine (tiếng Ả Rập: دولة فلسطين‎ Dawlat Filasṭīn), gọi tắt là Palestine (phiên âm tiếng Việt: Pa-lét-xtin), là một quốc gia có chủ quyền về mặt pháp lý tại khu vực Trung Đông, được đa số các thành viên Liên Hợp Quốc công nhận và kể từ năm 2012 thì có vị thế là nhà nước quan sát viên phi thành viên tại đây. Nhà nước Palestine yêu sách chủ quyền đối với Bờ Tây (giáp IsraelJordan) và Dải Gaza (giáp Israel và Ai Cập) cùng Đông Jerusalem là thủ đô. Tuy nhiên, hầu hết các khu vực mà Nhà nước Palestine yêu sách chủ quyền đều đã bị Israel kiểm soát kể từ năm 1967 sau Chiến tranh Sáu ngày cho tới nay. Nền độc lập của Nhà nước Palestine được Tổ chức Giải phóng Palestine tuyên bố vào ngày 15 tháng 11 năm 1988 tại Algiers với vị thế là một chính phủ lưu vong.

Sơ lược về Palestin:
Quốc kỳ:Quốc kỳ Palestine class=
Châu lục:Châu Á
Khu vực:Tây Á
Mã vùng:970
Quốc khánh:15 tháng 11
Diện tích:360 km² (Nguồn: WorldAtlas)
Dân số:4.981.420 người (2019)
GDP:14,62 tỉ đô la (USD) – cập nhật 2018
GDP đầu người:$3,198.87
Tiền tệ:<p>see entry for the West Bank</p>

Bản đồ Palestin online

Bạn có thể nhấn vào để xem bản đồ toàn màn hình.

Nguồn: Nền bản đồ Google Map, Open Street Map (OSM), Arcgisonline, Wmflabs… Dữ liệu ranh giới lấy từ Database of Global Administrative Areas.

Palestin ở đâu? Bản đồ vị trí Palestin

Palestin là một quốc gia thuộc khu vực Tây Á của Châu Á

Bản đồ vị trí Palestine
Bản đồ vị trí Palestine. Nguồn: Wikipedia
Palestine ở đâu?
Palestine ở đâu?. Nguồn: worldatlas.com
Bản đồ vị trí của Palestine. Nguồn: gisgeography.com
Bản đồ vị trí của Palestine. Nguồn: gisgeography.com. Nguồn: gisgeography.com

Bản đồ hành chính Palestin

 Bản đồ hành chính của Israel với những người buồn chán và các thành phố
Bản đồ hành chính của Israel với những người buồn chán và các thành phố. Nguồn: nationsonline.org
Palestine Bản đồ
Palestine Bản đồ. Nguồn: gisgeography.com
Bản đồ hành chính của Palestine
Bản đồ hành chính của Palestine. Nguồn: worldatlas.com

Lịch sử

Năm 1947, Liên Hợp Quốc thông qua kế hoạch phân chia cho giải pháp hai nhà nước tại lãnh thổ uỷ trị Palestine. Kế hoạch được giới lãnh đạo Do Thái chấp thuận song các thủ lĩnh Ả Rập bác bỏ, còn Anh từ chối thi hành kế hoạch. Ngay trước khi Anh triệt thoái, Cơ quan Do Thái vì Israel tuyên bố thành lập Nhà nước Israel theo kế hoạch Liên Hợp Quốc đề xuất. Ủy ban Cao cấp Ả Rập không tuyên bố một nhà nước của mình, thay vào đó họ cùng với Ngoại Jordan, Ai Cập và các thành viên khác của Liên đoàn Ả Rập bắt đầu hành động quân sự dẫn tới chiến tranh Ả Rập-Israel 1948. Trong chiến tranh, Israel giành được thêm các lãnh thổ vốn được kế hoạch của Liên Hợp Quốc xác định là bộ phận của nhà nước Ả Rập. Ai Cập chiếm đóng Dải Gaza và Ngoại Jordan chiếm đóng Bờ Tây. Ai Cập ban đầu ủng hộ thành lập một chính phủ toàn Palestine, song từ bỏ vào năm 1959. Ngoại Jordan chưa từng công nhận chính phủ này, thay vào đó họ quyết định hợp nhất Bờ Tây vào lãnh thổ của mình để hình thành Jordan. Hành động sáp nhập được phê chuẩn vào năm 1950 song bị cộng đồng quốc tế bác bỏ. Trong Chiến tranh Sáu ngày năm 1967, Ai Cập, Jordan, và Syria chiến đấu với Israel, kết quả là Israel chiếm đóng Bờ Tây và Dải Gaza, cùng các lãnh thổ khác.

Năm 1964, khi Bờ Tây còn do Jordan kiểm soát, Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO) được thành lập với mục tiêu là đương đầu với Israel. Hiến chương Quốc gia Palestine của Tổ chức Giải phóng Palestine xác định biên giới của Palestine là toàn bộ lãnh thổ còn lại của lãnh thổ uỷ trị, kể cả Israel. Sau chiến tranh Sáu ngày, Tổ chức Giải phóng Palestine chuyển đến Jordan, song rời sang Liban sau sự kiện Tháng 9 Đen năm 1971.

Hội nghị thượng đỉnh Liên đoàn Ả Rập năm 1974 xác định Tổ chức Giải phóng Palestine là đại biểu hợp pháp duy nhất của nhân dân Palestine và tái xác nhận “quyền lợi của họ về thành lập cấp bách một nhà nước độc lập.” Trong tháng 11 năm 1974, Tổ chức Giải phóng Palestine được công nhận là đủ thầm quyền trên mọi vấn đề liên quan đến vấn đề Palestine khi Đại hội đồng Liên Hợp Quốc trao cho họ vị thế quan sát viên với tư cách một “thực thể phi quốc gia” tại Liên Hợp Quốc. Sau Tuyên ngôn Độc lập năm 1988, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc chính thức thừa nhận tuyên ngôn và quyết định sử dụng định danh “Palestine” thay vì “Tổ chức Giải phóng Palestine” trong Liên Hợp Quốc. Mặc dù vậy, Tổ chức Giải phóng Palestine không tham gia Liên Hợp Quốc với vai trò là chính phủ của Nhà nước Palestine.

Năm 1979, thông qua Hiệp định Trại David, Ai Cập chấm dứt yêu sách của mình đối với Dải Gaza. Trong tháng 7 năm 1988, Jordan nhượng lại yêu sách chủ quyền của mình đối với Bờ Tây—với ngoại lệ là trách nhiệm giám hộ Haram al-Sharif—cho Tổ chức Giải phóng Palestine. Trong tháng 11 năm 1988, cơ quan lập pháp của Tổ chức Giải phóng Palestine tuyên bố thành lập “Nhà nước Palestine”. Trong tháng sau, Nhà nước Palestine nhanh chóng được nhiều quốc gia công nhận, bao gồm Ai Cập và Jordan. Trong Tuyên ngôn Độc lập Palestine, Nhà nước Palestine được mô tả là được thành lập trên “lãnh thổ Palestine”, song không nêu cụ thể hơn. Do đó, một số quốc gia công nhận Nhà nước Palestine trong tuyên bố công nhận của họ đề cập đến “biên giới năm 1967”, do đó công nhận đó chỉ là lãnh thổ Palestine bị chiếm đóng chứ không phải là Israel. Nhà nước Palestine khi trình đơn xin làm thành viên Liên Hợp Quốc cũng ghi rõ rằng họ dựa trên “biên giới năm 1967”. Trong các cuộc đàm phán Hiệp định Oslo, Tổ chức Giải phóng Palestine công nhận quyền tồn tại của Israel, và Israel công nhận Tổ chức Giải phóng Palestine là đại biểu của nhân dân Palestine. Từ năm 1993 đến năm 1998, Tổ chức Giải phóng Palestine cam kết thay đổi các điều khoản của Hiến chương Quốc gia Palestine không phù hợp với mục tiêu giải pháp hai nhà nước và cùng tồn tại hoà bình với Israel.

Sau khi Israel giành quyền kiểm soát Bờ Tây từ Jordan và Dải Gaza từ Ai Cập, họ bắt đầu lập các khu định cư Israel tại đó. Các khu này được tổ chức thành quận Judea và Samaria (Bờ Tây) và Hội đồng khu vực Hof Aza (Dải Gaza). Quyền cai quản cư dân Ả Rập trong các lãnh thổ này thuộc Chính quyền Dân sự Israel và các hội đồng tự quản địa phương tồn tại từ trước khi Israel chiếm cứ. Năm 1980, Israel quyết định đóng băng bầu cử cho các hội đồng này và thay vào đó lập ra các liên minh làng có các công chức chịu ảnh hưởng của Israel. Sau đó mô hình này trở nên không hiệu quả đối với cả Israel và người Palestine, và các liên minh làng bắt đầu tan vỡ, liên minh làng cuối cùng mang tên liên minh Hebron giải thể vào năm 1988.

Năm 1993, trong Hiệp định Oslo, Israel thừa nhận đoàn đàm phán của Tổ chức Giải phóng Palestine là “đại biểu của nhân dân Palestine”, đổi lại Tổ chức Giải phóng Palestine công nhận quyền tồn tại hoà bình của Israel, chấp thuận các nghị quyết 242 và 338 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, và từ bỏ “bạo lực và khủng bố”. Do đó, vào năm 1994 Tổ chức Giải phóng Palestine thành lập Chính quyền Dân tộc Palestine (PNA hoặc PA), thực thi một số chức năng chính phủ tại một số nơi của Bờ Tây và Dải Gaza.

Theo hình dung trong Hiệp định Oslo, Israel cho phép Tổ chức Giải phóng Palestine thành lập các thể chế hành chính lâm thời trên các lãnh thổ Palestine, dưới hình thức PNA. Họ được giao quyền kiểm soát dân sự tại khu vực B và quyền kiểm soát dân sự và an ninh tại khu vực A, và duy trì không can thiệp vào khu vực C. Năm 2005, sau khi Israel thi hành rút quân đơn phương, Chính quyền Dân tộc Palestine giành quyền kiểm soát hoàn toàn Dải Gaza với ngoại lệ là biên giới, sân bay và lãnh hải. Năm 2007, Hamas chiếm Dải Gaza khiến người Palestine bị phân chia về chính trị và lãnh thổ, với phái Fatah của Abbas cai quản phần lớn Bờ Tây và được quốc tế công nhận là Chính quyền Palestine chính thức, trong khi Hamas đảm bảo quyền kiểm soát đối với Dải Gaza. Trong tháng 4 năm 2011, các đảng phái Palestine ký kết một thoả thuận hoà giải, song việc thực hiện bị đình trệ

Ngày 29 tháng 11 năm 2012, với đa số phiếu tán thành, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua nghị quyết 67/19, nâng cấp Palestine từ một “thực thể quan sát viên” thành một “nhà nước quan sát viên phi thành viên” trong hệ thống Liên Hợp Quốc, được mô tả là hành động công nhận chủ quyền của Tổ chức Giải phóng Palestine.

Bản đồ vật lý Palestin

Bản đồ vật lý của Palestine
Bản đồ vật lý của Palestine. Nguồn: worldatlas.com

Địa lý

Dải Gaza có địa hình bằng phẳng hay gợn sóng, với các đụn cát gần bờ biển. Điểm cao nhất là Abu ‘Awdah (Joz Abu ‘Auda), với độ cao 105 mét trên mực nước biển. Địa hình Bờ Tây chủ yếu là vùng cao gồ ghề bị chia tách, có một số thực vật tại phía tây, song phía đông hơi khô cằn. Độ cao biến đổi từ bờ bắc của biển Chết là 429 m dưới mực nước biển, đến điểm cao nhất trên núi Nabi Yunis đạt 1.030 m trên mực nước biển. Khu vực Bờ Tây không giáp biển, là khu vực tiếp nước cho nước ngầm duyên hải của Israel.

Đồng bằng duyên hải Gaza gồm các đụn cát và trầm tích pha cát màu mỡ. Ngoại trừ một cát kết đá vôi xốp gọi là kurkar trong tiếng Ả Rập, không có đá nào khác trong khu vực. Trong khi đó, các núi thấp chiếm ưu thế tại Bờ Tây: núi Gerizim (881m), Nabi Samwil (890m), và núi Scopus (826m). Các đá chủ yếu bao gồm trầm tích biển (đá vôi và dolomit). Tính xốp của đá cho phép nước ngấm xuống địa tầng không xốp, rồi cung cấp nước cho nhiều tầng ngậm nước trong khu vực.

Thung lũng Jordan là một đứt đoạn của hệ thống đứt đoạn Biển Chết, một phần kéo dài của Thung lũng tách giãn Lớn phân tách mảng châu Phi khỏi mảng Ả Rập. Toàn bộ đứt đoạn được cho là từng gãy nhiều lần, chẳng hạn như trong động đất năm 749 và năm 1033. Hụt trượt do sự kiện năm 1033 đủ để gây ra một trận động đất khoảng 7,4 Mw.

Sông Jordan là sông lớn nhất tại Palestine, tạo thành biên giới phía đông của Bờ Tây cho đến khi đổ vào biển Chết. Báo cáo cho hay có tới 96% nước sạch sông Jordan bị điều hướng bởi Israel, JordanSyria, mặt khác lượng lớn nước thải chưa xử lý được cho chảy ra sông. Một báo vào năm 2013 cho thấy rằng Israel thường từ chối để cư dân Palestine tại thung lũng Jordan tiếp cận sông. Biển Chết là thực thể nước lớn nhất tại Palestine, còn thung lũng Marj Sanur tạo thành một hồ theo mùa. Một số dòng chảy không thường xuyên, tiếng Ả Rập gọi là wadi, chảy vào sông Jordan hoặc biển Chết qua Bờ Tây, một số wadi chảy qua Israel vào Địa Trung Hải.

Khí hậu tại Bờ Tây chủ yếu là khí hậu Địa Trung Hải, mát hơn một chút tại các khu vực cao phía tây so với bờ biển. Tại phía đông, Bờ Tây bao gồm phần lớn sa mạc Judea trong đó có bờ biển phía tây của biến Chết, có đặc trưng là khô nóng. Gaza có khí hậu bán khô hạn nóng với mùa đông ôn hoà và mùa hè khô nóng. Mùa xuân đến vào khoảng tháng 3-4, và tháng nóng nhất là tháng 6-7, với nhiệt độ trung bình là 33 °C. Tháng lạnh nhất là tháng 1 với nhiệt độ thường là 7 °C. Mưa hiếm và thường xuất hiện từ tháng 11 đến tháng 3, với lượng mưa hàng năm là 116 mm.

Tài nguyên tự nhiên của Palestine gồm có bùn lấy từ biển Chết, có chứa magie, cali cacbonat hay brom. Tuy nhiên, tài nguyên này là độc quyền của các khu định cư Israel; một báo cáo vào năm 2015 cho rằng giá trị gia tăng của việc tiếp cận các nguồn tài nguyên tự nhiên này có thể mang lại cho nền kinh tế 918 triệu USD mỗi năm. Palestine cũng có nhiều mỏ khí đốt với trữ lượng cao trong khu vực lãnh hải của Dải Gaza; tuy nhiên chúng chưa được khai thác do Israel hạn chế khu vực lãnh hải của Gaza từ 3 đến 6 hải lý trong hành động phong toả Gaza.

Dải Gaza phải đối diện với hoang mạc hoá, mặn hoá nước ngọt, xử lý nước thải, dịch bệnh truyền qua nước, suy thoái đất, và cạn kiệt cùng ô nhiễm tài nguyên nước ngầm. Bờ Tây cũng có nhiều vấn đề tương tự, dù nước sạch sung túc hơn nhiều song việc tiếp cận bị hạn chế do Israel tiếp tục chiếm đóng.

Bản đồ vệ tinh Palestin

Nhà nước Palestine Bản đồ vệ tinh
Nhà nước Palestine Bản đồ vệ tinh. Nguồn: gisgeography.com

Bản đồ độ cao địa hình

Nhà nước Palestine Độ cao Bản đồ
Nhà nước Palestine Độ cao Bản đồ. Nguồn: gisgeography.com

Xem thêm

5/5 - (3 bình chọn)

Viết một bình luận


Bài viết mới