Greenland (tiếng Greenland: Kalaallit Nunaat, nghĩa “vùng đất của con người”; tiếng Đan Mạch: Grønland, phiên âm tiếng Đan Mạch: Grơn-len, nghĩa “Vùng đất xanh”) là một quốc gia tự trị thuộc Vương quốc Đan Mạch. Dù về địa lý và dân tộc đây là một đảo quốc Bắc cực liên kết với lục địa Bắc Mỹ và Canada nhưng về mặt chính trị và lịch sử thì Greenland có quan hệ mật thiết với châu Âu. Đại Tây Dương bao quanh Greenland ở phía đông nam; Biển Greenland ở phía đông; Bắc Băng Dương ở phía bắc; và Vịnh Baffin ở phía tây.Quốc gia nằm gần vùng này nhất là Iceland, ở phía đông Greenland trong Đại Tây Dương và Canada ở phía tây bên kia Vịnh Baffin. Greenland là hòn đảo lớn nhất thế giới. Đây cũng là nơi có vườn quốc gia lớn nhất thế giới.
Khoảng 80% diện tích bề mặt Greenland bị băng bao phủ, được gọi là mũi băng Greenland, trọng lượng của băng đã nén vùng đất trung tâm lục địa hình thành nên một lòng chảo nằm thấp hơn 300 m [1.000 ft] dưới mực nước biển. Hầu như tất cả người dân Greenland đều sống dọc theo các vịnh hẹp (fjords) ở phía tây nam đảo chính, nơi có khí hậu ôn hoà hơn. Đa phần người dân Greenland là hậu duệ của cả người Kalaallit (Inuit) và Scandinavia và sử dụng tiếng Greenland (hay Kalaallisut) làm ngôn ngữ chính. Tiếng Greenland được hơn 50.000 người sử dụng, lớn hơn toàn bộ nhóm ngôn ngữ Eskimo-Aleut cộng lại. Một cộng đồng thiểu số Đan Mạch di cư tới đây nói tiếng Đan Mạch. Cả hai đều là ngôn ngữ chính thức, trong khi đó phương ngữ Greenland phía tây là hình thức chính thức của tiếng Greenland.
Hiện đang có cuộc tranh cãi ngoại giao về chủ quyền giữa Canada và Greenland (được đại diện trên trường quốc tế bởi Đan Mạch) về hòn đảo nhỏ Hans.
Greenland trở thành thuộc địa của Vương quốc Na Uy (Norgesveldet) từ năm 1261. Tuy nhiên, từ sau năm 1397, khi có Liên minh Kalmar, thì quyền kiểm soát Greenland trên thực tế dần dần rơi vào tay Vương quốc Đan Mạch và tới năm 1814 khi có Hòa ước Kiel thì Greenland hoàn toàn trở thành thuộc địa của Đan Mạch.
Tới ngày 5 tháng 6 năm 1953, khi Đan Mạch tu chính Luật căn bản (cũng gọi là Luật hiến pháp) thì Greenland được sáp nhập thành một amt (tương đương tỉnh hạt) của Đan Mạch. Sau cuộc trưng cầu ý dân năm 1978, Greenland được Quốc hội Đan Mạch (Folketing) biểu quyết Luật số 577 vào ngày 29 tháng 11 năm 1978 trao cho quyền tự trị. Luật bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1 tháng 5 năm 1979. Nữ hoàng Đan Mạch, Margrethe II, vẫn là quốc trưởng của Greenland. Các cử tri Greenland đã lựa chọn tách khỏi Cộng đồng kinh tế châu Âu ngay sau khi được trao quyền tự trị.
Sau gần 300 năm dưới sự cai trị của Đan Mạch, Greenland đã tiến 1 bước dài trong việc độc lập với Đan Mạch. Cuộc trưng cầu dân ý năm 2008 nhằm đề nghị nhiều quyền hạn hơn từ phía Copenhagen đã được công nhận và có hiệu lực từ ngày 21 tháng 6 năm 2009. Đan Mạch vẫn giữ lại quyền kiểm soát tài chính, đối ngoại, quốc phòng nhưng sẽ giảm dần trợ cấp hàng năm và từ bỏ quyền kiểm soát tài nguyên thiên nhiên trên đảo. Người Greenland – hầu hết là người bản địa Inuit – sẽ được đối xử như người riêng biệt theo luật quốc tế.
Thủ đô: | Nuuk (Godthaab) |
---|---|
Diện tích: | 2,166,086 km² (Nguồn: WorldAtlas) |
GDP đầu người: | $54,470.96 |
Tiền tệ: | Danish kroner (DKK) |
Greenland ở đâu? Bản đồ vị trí Greenland
Bản đồ hành chính Greenland
Lịch sử
Dân cư nguyên thủy của Greenland xuất xứ từ vùng Trung Á, nơi các bộ tộc Eskimo tức người Inuit di chuyển bằng đường bộ qua eo biển Bering, qua Alaska rồi đi tiếp tới các đảo ở phía bắc Canada. Từ đó họ đã đi bộ qua eo biển hẹp tới vùng Thule khoảng năm 2.500 trước Công nguyên (vùng mà nhà thám hiểm Hy Lạp Pytheas đặt tên cho một hòn đảo mà ông ta đã đặt chân lên khoảng năm 330-320 TCN, không biết đích xác nơi nào, dường như là Iceland hay quần đảo Faroe hay Greenland hay Hålogaland (miền bắc Na Uy). Những người nhập cư đầu tiên này được xem là thuộc nền văn hóa Independence I, theo tên địa điểm mà các di tích khảo cổ đã được tìm thấy.
Tới khoảng năm 1.600 TCN, có một đợt dân nhập cư tới cư ngụ ở dọc theo bờ biển phía tây, thuộc nền văn hóa Saqqaq. Họ sống tại đây trong khoảng 1.000 năm, sau đó dường như họ không chịu nổi sự biến đổi khí hậu nữa.
Sau đó tới nhóm người thuộc nền văn hoá Dorset (văn hoá Paleo-Eskimo) ở thời tiền sử nhập cư vào khu bờ biển phía đông và phía tây, và nền văn hoá này đã biến mất vào khoảng năm 200. Ngày nay còn nhiều di tích khảo cổ tại các nhà bảo tàng địa phương ở Greenland. Từ đó về sau, dường như không hề có người sinh sống trên hòn đảo này trong 8 thế kỷ.
Những nông dân Iceland dưới sự lãnh đạo của Erik Đỏ (Eirik Raude) tới Greenland vào khoảng năm 982. Họ đã lập ra ba khu định cư ở Brattahlid gần mũi cực tây nam hòn đảo, và chính họ đã đặt tên cho đảo là Grønland (Greenland). những nơi này đã phát triển nhanh chóng trong vài thế kỷ sau đó, và đã biến mất sau hơn 450 năm có người sinh sống.
Đợt dân nhập cư cuối cùng xảy ra khoảng năm 1.200 và những di dân này là tổ tiên của dân cư Greenland hiện nay.
Thời ấy, các vịnh hẹp (fjords) ở phần phía nam hòn đảo có hệ động thực vật phát triển và khí hậu ấm hơn, có lẽ vì thế nó được gọi là Giai đoạn ấm Trung Cổ. Các cộng đồng xa xôi đó đã phát triển, và sinh sống bằng việc đồng áng, săn bắn cũng như buôn bán với mẫu quốc. Dường như những người tới định cư sống khá hoà thuận với người Inuit, họ đã di cư về phía nam từ các đảo Bắc Cực của Bắc Mỹ từ khoảng năm 1200. Năm 1261, Greenland trở thành thuộc địa của Vương quốc Na Uy. Tới lượt mình Na Uy lại tham gia vào Liên minh Kalmar năm 1397 và sau này là Liên minh Đan Mạch-Na Uy.
Sau gần năm trăm năm, những người định cư Scandinavia đã biến mất, có lẽ vì nạn đói trong thế kỷ 15 ở thời Băng hà nhỏ, khi các điều kiện khí hậu trở nên khắc nghiệt hơn, và tiếp xúc với Châu Âu bị gián đoạn. Xương cốt thời kỳ này được tìm thấy ngày nay cho thấy những bằng chứng ủng hộ điều đó. Một số người tin rằng những người định cư đã biến mất vì bệnh dịch hạch hay bị người Inuit tiêu diệt. Các nhà sử học đã chỉ ra rằng những tên cướp biển người Basque hay người Anh hay những kẻ buôn bán nô lệ từ Bờ biển Barbary đã góp phần vào sự biến mất của những cộng đồng tại Greenland.
Năm 1721, mục sư người Na Uy gốc Đan Mạch Hans Egede, được vua Frederik IV của Đan Mạch phái tới Greenland để tìm các cư dân Bắc Âu, nhưng không thấy, mà chỉ gặp dân Inuit, ông ta bắt đầu truyền giáo, khiến họ cải sang Kitô giáo. Hans Egede đặt nền móng cho thành phố Nuuk (nay là thủ phủ của Greenland), vừa truyền giáo vừa buôn bán nhân danh vua Đan Mạch.
Đan Mạch–Na Uy tái xác nhận tuyên bố chủ quyền của họ với thuộc địa này năm 1721. Các mối quan hệ của hòn đảo với Na Uy trở nên xấu đi sau Hòa ước Kiel năm 1814, theo đó Thuỵ Điển giành được quyền kiểm soát toàn bộ nước Na Uy trong khi Đan Mạch giữ lại toàn bộ quyền sở hữu những vùng bên ngoài (thời ấy gồm các lãnh thổ nhỏ tại Ấn Độ, Tây Phi và Tây Ấn, cũng như Quần đảo Faroe, Iceland và Greenland.
Na Uy chiếm và tuyên bố chủ quyền nhiều phần (khi ấy không có người ở) ở phía Đông Greenland còn gọi là Erik the Red’s Land vào tháng 7 năm 1931, cho rằng đó là Vùng đất không thuộc chủ quyền của một bên nào (Terra nullius). Na Uy và Đan Mạch đã đồng ý giải quyết vấn đề tại Toà án luật pháp quốc tế năm 1933, toà xử Na Uy thua cuộc.
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Greenland là một trạm trung chuyển hàng không quan trọng của phe Đồng Minh, để chở hàng tiếp liệu từ Hoa Kỳ sang Anh. Các nguồn tiếp liệu từ Đan Mạch bị cắt đứt từ ngày 9 tháng 4 năm 1940 khi Đan Mạch bị Đức chiếm đóng, và Greenland tự quản lý các công việc của mình. Nhờ có cryolite khai thác ở mỏ Ivigtut, Greenland có khả năng chi trả cho những mặt hàng mua từ Hoa Kỳ và Canada. Trong chiến tranh hệ thống chính phủ đã thay đổi. Eske Brun là thủ hiến và người cai trị hòn đảo thông qua một điều luật năm 1925 liên quan tới việc quản lý hòn đảo khi, dưới những trường hợp đặc biệt, các vị thủ hiến không thể nắm quyền kiểm soát. Vị thủ hiến khác, Aksel Svane, được phái tới Hoa Kỳ với tư cách lãnh đạo uỷ ban cung cấp Greenland. Đơn vị tuần tra Sirius Patrol, canh gác các bờ biển phía đông bắc Greenland sử dụng các xe chó kéo, đã phát hiện và phá huỷ nhiều trạm dự báo thời tiết của Đức, khiến Đan Mạch có được một vị trí tốt hơn trong giai đoạn hỗn loạn thời hậu chiến.
Tới tận năm 1940, Greenland vẫn là một xã hội được bảo vệ và vì vậy cũng là một xã hội biệt lập. Chính phủ Đan Mạch, cai quản thuộc địa Greenland, tin rằng xã hội này sẽ phải đối mặt với sự khai thác từ thế giới bên ngoài, thậm chí là bị diệt chủng nếu được mở cửa. Dù trong Chiến tranh thế giới thứ hai, ở Greenland đã phát triển một tinh thần tự cường trong giai đoạn tự quản lý và thông tin độc lập với thế giới bên ngoài.
Tuy nhiên, năm 1946 một uỷ ban (với sự tham gia của hội đồng cấp cao nhất của Greenland) đề xuất sự kiên nhẫn và không đưa ra những sửa đổi quá triệt để với hệ thống này. Hai năm sau, bước đầu tiên nhằm tiến tới một chính phủ ở Greenland được khởi động khi một uỷ ban quan trọng được thành lập. Năm 1950 bản báo cáo (G-50) được đệ trình. Greenland muốn trở thành một xã hội hiện đại và thịnh vượng với Đan Mạch vừa là hình mẫu, vừa là nước đỡ đầu. Năm 1953 Greenland trở thành một lãnh thổ bình đẳng bên trong Cộng đồng Vương quốc Đan Mạch (Rigsfælleskab).
Năm 1979, Greenland được trao thể chế tự trị.
Sau ba thế kỷ là một phần lãnh thổ của Đan Mạch, ngày 21 tháng 6 năm 2009, Greenland chính thức tiếp quản quyền điều hành lực lượng cảnh sát và tòa án của hòn đảo cùng với việc tiếp quản này, chính quyền đảo Greenland sẽ được thu phần lớn hơn trong việc khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên tại đảo và được luật pháp quốc tế đối xử như một thực thể độc lập với ngôn ngữ chính thức là tiếng Kalaallisut chứ không còn là tiếng Đan Mạch.
Bản đồ vật lý Greenland
Địa lý
Greenland nằm trải dài trên 24 vĩ độ, từ mũi Uummannarssuaq (tiếng Đan Mạch: Kap Farvel, tiếng Anh: Cap Farewell) cực nam ở 59°46′ độ vĩ bắc (ngang Oslo) tới đảo Inuit Qeqertaat (tiếng Đan Mạch: Kaffeklubben) ở 83°40′ độ vĩ bắc. Đảo có chiều dài 2.650 km và rộng khoảng 1.000 km, nằm cách Bắc cực 710 km, là lãnh thổ cực bắc của Trái Đất.
Greenland có biên giới phía nam là Đại Tây Dương, phía bắc là biển Lincoln và biển Wandels (cả hai biển này đều nằm trong Bắc Băng Dương), phía tây là eo biển Davis và vịnh Baffin, phía tây bắc là eo biển Smith và eo biển Nares, phía đông là biển Greenland và eo biển Đan Mạch, cách Iceland 240 km.
Tổng diện tích Greenland là 2.166.086 km² (836.109 dặm vuông), trong đó Phiến băng Greenland bao phủ 1.755.637 km² (677.676 dặm vuông) (81%), chỉ có 410.449 km² diện tích là không có băng bao phủ (19%). Điểm cao nhất là núi Gunnbjørn ở phía đông, cao 3.693 mét. Đường bờ biển Greenland dài 44.087 km, khoảng bằng chiều dài chu vi xích đạo Trái Đất.
Trọng lượng to lớn của phiến băng Greenland với chiều cao 3.000 mét đã nén vùng đất trung tâm, hình thành nên một lòng chảo nằm thấp hơn 300 m [1.000 feet] dưới mực nước biển, đồng thời cũng ép các khối băng dư thừa ra biển thành những núi băng trôi lớn hay nhỏ. Năm 1912, tàu Titanic đã đụng phải một trong các núi băng này.
Toàn bộ thị trấn và khu định cư ở Greenland nằm dọc theo bờ biển không bị băng bao phủ, dân số tập trung ở bờ biển phía tây. Vùng phía đông bắc Greenland, gồm các khu vực Bắc Greenland và Đông Greenland, không phải là một phần của bất cứ khu vực tự trị nào, đây là nơi có vườn quốc gia lớn nhất thế giới, Vườn quốc gia đông bắc Greenland. Xem Các vùng của Greenland.
Ít nhất có bốn trạm và trại thám hiểm khoa học ở phần trung tâm bị băng bao phủ của Greenland (được thể hiện bằng màu xanh nhạt trên bản đồ bên phải) là: Eismitte, Băng Bắc, Trại Bắc GRIP, Raven Skiway. Hiện nay, có một trạm thường trú cả năm là Summit Camp, được thành lập năm 1989. Đài phát thanh Jørgen Brøndlund Fjord cho tới tận năm 1950, là trạm xa nhất về phía cực bắc trên thế giới.
Vùng xa nhất phía bắc Greenland là Peary Land, nơi đây không bị băng bao phủ bởi vì không khí quá khô để tuyết, yếu tố chủ chốt để hình thành và duy trì các phiến băng, xuất hiện. Nếu phiến băng Greenland tan chảy hoàn toàn, mực nước biển sẽ tăng thêm hơn 7 m (23 feet) và Greenland có lẽ sẽ trở thành một quần đảo.
Trong khoảng 1989 và 1993, các nhà nghiên cứu khí hậu Hoa Kỳ và châu Âu đã khoan vào đỉnh phiến băng Greenland, thu được hai lõi băng dài hai dặm (3.2 km). Phân tích các lớp và thành phần lõi băng cho thấy đã có một sự thay đổi khí hậu lớn ở Bắc Bán Cầu từ khoảng 100.000 năm trước chứng minh rằng thời tiết và khí hậu Trái Đất đã thay đổi nhanh chóng từ trạng thái có vẻ rất ổn định tới một trạng thái khác hẳn, gây ra những hậu quả trên khắp thế giới. Các băng hà Greenland cũng góp phần làm tăng mực nước biển nhanh chóng hơn so với điều chúng ta từng tin tưởng trước đây.
Tháng 2 năm 2006 các nhà nghiên cứu đã báo cáo rằng các băng hà ở Greenland đang tan ra với tốc độ nhanh gấp hai lần so với năm năm trước đây. Năm 2005, lượng băng tan hàng năm được ước tính khoảng 216 km³/năm (52 dặm khối mỗi năm), theo các tính toán hấp dẫn vệ tinh. Trong khoảng 1991 và 2006, việc kiểm tra thời tiết tại một địa điểm (Trại Thuỵ Sĩ) đã thấy rằng nhiệt độ trung bình mùa đông đã tăng gần 10 độ fahrenheit.
Năm 2020, theo nghiên cứu mới nhất được NASA công bố thì ẩn mình dưới lớp băng dày ở Greenland có tới 56 hồ nước ngầm.