Bản đồ New Caledonia

Nouvelle-Calédonie (phát âm tiếng Pháp: [nuvɛl kaledɔni], phiên âm: “Nu-ven Ca-lê-đô-ni”, người Việt Nam thường gọi là Tân Thế giới, còn được gọi theo tên tiếng Anh là New Caledonia, đọc là: “Niu Ca-lê-đô-ni-a”) là một lãnh thổ hải ngoại của Pháp nằm tại tây nam Thái Bình Dương, cách Úc 1.210 km và cách Mẫu quốc Pháp 16.136 km. Quần đảo là bộ phận của tiểu vùng Melanesia, và bao gồm đảo chính Grande Terre, quần đảo Loyauté và một số đảo nhỏ khác. Cư dân bản địa gọi Grande Terre là Le Caillou (“viên sỏi”).

Nouvelle-Calédonie có diện tích đất là 18.576 km², dân số theo điều tra năm 2014 là 268.767 người gồm người Kanak bản địa, người gốc Âu (người Caldoche sinh tại địa phương và người Pháp mẫu quốc), người Polynesia (chủ yếu là người Wallis), và người Đông Nam Á, cùng một số người Pied-Noir và gốc Maghreb. Thủ phủ của lãnh thổ là Nouméa.

Sơ lược về New Caledonia:
Quốc kỳ:Quốc kỳ New Caledonia class=
Thủ đô:Noumea
Diện tích:18,575 km² (Nguồn: WorldAtlas)
Dân số:284.060 người (2019)
Tiền tệ:Comptoirs Francais du Pacifique francs (XPF)

Bản đồ New Caledonia online

Bạn có thể nhấn vào để xem bản đồ toàn màn hình.

Nguồn: Nền bản đồ Google Map, Open Street Map (OSM), Arcgisonline, Wmflabs… Dữ liệu ranh giới lấy từ Database of Global Administrative Areas.

New Caledonia ở đâu? Bản đồ vị trí New Caledonia

Bản đồ vị trí New Caledonia
Bản đồ vị trí New Caledonia. Nguồn: Wikipedia
New Caledonia ở đâu?
New Caledonia ở đâu?. Nguồn: worldatlas.com
Bản đồ vị trí của New Caledonia. Nguồn: gisgeography.com
Bản đồ vị trí của New Caledonia. Nguồn: gisgeography.com. Nguồn: gisgeography.com

Bản đồ hành chính New Caledonia

Bản đồ hành chính của New Caledonia
Bản đồ hành chính của New Caledonia. Nguồn: nationsonline.org
Bản đồ New Caledonia
Bản đồ New Caledonia. Nguồn: gisgeography.com
. Nguồn: worldatlas.com

Lịch sử

Dấu tích sớm nhất về việc loài người hiện diện tại Nouvelle-Calédonie có niên đại từ giai đoạn Lapita (khoảng 1600 TCN đến khoảng 500 TCN). Người thuộc văn hoá Lapita là những người đi biển và làm nông có kỹ năng cao, có ảnh hưởng trên một khu vực lớn của Thái Bình Dương.

Nhà thám hiểm người Anh James Cook là người châu Âu đầu tiên trông thấy Nouvelle-Calédonie, đó là vào ngày 4 tháng 9 năm 1774 trong hành trình thứ nhì của ông. Ông đặt tên cho đảo là “New Caledonia”, do phần đông bắc của đảo khiến ông nhớ đến Scotland. Nhà thám hiểm người Pháp Jean-François de Galaup tiếp cận duyên hải phía tây của Grande Terre vào năm 1788, ngay trước khi ông mất tích, còn quần đảo Loyauté có người châu Âu lần đầu đến thăm vào năm 1796. Từ sau đó cho đến năm 1840, chỉ ghi nhận được một vài tiếp xúc không thường xuyên với quần đảo. Tiếp xúc trở nên thường xuyên hơn sau năm 1840, do mối quan tâm đến gỗ đàn hương từ Nouvelle-Calédonie.

Do mậu dịch gỗ đàn hương suy thoái, thay thế nó là buôn bán những người bị nô lệ hoá từ Nouvelle-Calédonie, quần đảo Loyauté, New Hebrides, New Guinea, và quần đảo Solomon đi làm việc trong các đồn điền mía tại Fiji và Queensland. Hoạt động mậu dịch này ngừng lại vào khởi đầu thế kỷ 20. Nạn nhân của hoạt động này được gọi là “Kanaka”.

Các đoàn truyền giáo đầu tiên đến từ Hội Truyền giáo Luân Đôn và Dòng Các Thầy Maria, họ đến trong thập niên 1840. Năm 1849, thủy thủ đoàn trên tàu Cutter của Hoa Kỳ bị thị tộc Pouma giết và ăn thịt. Ăn thịt người là hành vi phổ biến trên khắp Nouvelle-Calédonie khi đó.

Ngày 24 tháng 9 năm 1853, theo lệnh của Hoàng đế Napoléon III, Đô đốc Febvrier Despointes giành quyền chiếm hữu chính thức đối với Nouvelle-Calédonie và Port-de-France (Nouméa) được thành lập vào ngày 25 tháng 6 năm 1854. Vài chục người định cư tự do đến duyên hải phía tây trong những năm sau đó. Nouvelle-Calédonie trở thành một thuộc địa hình sự, và từ thập niên 1860 cho đến khi kết thúc vận chuyển tù nhân vào năm 1897, có khoản 22.000 tù nhân hình sự và chính trị bị đưa sang Nouvelle-Calédonie. Bulletin de la Société générale des prisons vào năm 1888 cho thấy rằng 10.428 tù nhân, bao gồm 2.329 người đã được phóng thích, ở trên đảo vào ngày 1 tháng 5 năm 1888, số lượng tù nhân lớn nhất và vượt xa số tù nhân bị giữ tại các trại tù hải ngoại khác. Trong số các tù nhân, có nhiều chiến sĩ bị bắt giữ sau thất bại của Công xã Paris, trong đó có Henri Rochefort và Louise Michel. Từ năm 1873 đến năm 1876, 4.200 tù nhân chính trị được chuyển đến Nouvelle-Calédonie. Chỉ có 40 trong số này định cư tại thuộc địa, phần còn lại trở về Pháp sau khi được ân xá vào năm 1879 và 1880.

Năm 1864, phát hiện được niken bên bờ sông Diahot và ngành khai mỏ bắt đầu một cách nghiêm túc khi Société Le Nickel được thành lập vào năm 1876. Người Pháp nhập khẩu lao công đến làm việc tại các mỏ, ban đầu là từ các đảo lân cận, sau đó là từ Nhật Bản, Đông Ấn Hà Lan và Đông Dương thuộc Pháp. Chính phủ Pháp cũng nỗ lực khuyến khích người châu Âu nhập cư, song không đạt nhiều thành công.

Cư dân bản địa bị loại trừ khỏi kinh tế Pháp, thậm chí là trong việc làm công nhân khai mỏ, và họ cuối cùng bị hạn chế trong các khu vực riêng. Điều này dây ra một phản ứng bạo lực vào năm 1878 khi tù trưởng cấp cao Atal của La Foa thống nhất nhiều bộ lạc tại miền trung và phát động chiến tranh du kích, khiến 200 người Pháp và 1.000 người Kanak thiệt mạng. Người châu Âu mang đến các bệnh mới như đậu mùa và sởi, khiến nhiều người thiệt mạng. Dân số người Kanak giảm từ 60.000 vào năm 1878 xuống còn 27.100 vào năm 1921, và quy mô công đồng không tăng trở lại cho đến thập niên 1930.

Trong tháng 6 năm 1940, sau khi Pháp thất thủ trước quân Đức, Hội đồng toàn thể Nouvelle-Calédonie nhất trí ủng hộ chính phủ Pháp quốc Tự do, và đến tháng 9 vị thống đốc thân Vichy bị buộc phải rời đến Đông Dương. Trong tháng 3 năm 1942, được Úc giúp đỡ, lãnh thổ trở thành một căn cứ quan trọng của Đồng Minh, và Nouméa là đại bản quan của lực lượng hải quân và lục quân của Hoa Kỳ tại Nam Thái Bình Dương. Hạm đội từng đẩy lui lực lượng hải quân của Nhật Bản trong trận chiến biển Coral vào tháng 5 năm 1942 có căn cứ tại Nouméa. Số lượng binh sĩ Hoa Kỳ đông đến 50.000, tương đương dân số lãnh thổ vào đương thời.

Năm 1946, Nouvelle-Calédonie trở thành một lãnh thổ hải ngoại. Đến năm 1953, toàn bộ cư dân Nouvelle-Calédonie thuộc mọi dân tộc đều được cấp quyền công dân Pháp.

Dân số người gốc Âu và Polynesia dần tăng lên trong những năm dẫn đến bùng nổ niken 1969–1972, và người Melanesia trở thành thiểu số, song vẫn là dân tộc lớn nhất. Từ năm 1976 đến năm 1988, Nouvelle-Calédonie thông qua năm đạo luật, đều gây nên bất mãn và hỗn loạn nghiêm trọng, đỉnh điểm là vào năm 1988 khi xảy ra cuộc bắt cóc con tin đẫm máu tại Ouvéa. Các hiệp định Matignon được ký kết vào ngày 26 tháng 6 năm 1988 đảm bảo một thập niên ổn định. Hiệp nghị Nouméa được ký kết vào ngày 5 tháng 5 năm 1998, định ra cơ sở cho 20 năm chuyển đổi, theo đó dần chuyển giao thẩm quyền cho chính quyền địa phương.

Bản đồ vật lý New Caledonia

Bản đồ vật lý của New Caledonia
Bản đồ vật lý của New Caledonia. Nguồn: worldatlas.com

Địa lý

Nouvelle-Calédonie là bộ phận của Zealandia, một mảnh của siêu lục địa cổ đại Gondwana. Người ta suy đoán rằng Nouvelle-Calédonie tách khỏi Úc vào khoảng 66 triệu năm trước, sau đó trôi về hướng đông bắc, đến vị trí hiện tại vào khoảng 50 triệu năm trước.

Đảo chính bị phân chia theo chiều dài do một dãy núi ở phía giữa, có các đỉnh cao nhất là núi Panié (1.629 m) tại phía bắc và núi Humboldt (1.618 m) tại phía đông nam. Duyên hải phía đông có thảm thực vật tươi tốt. Duyên hải phía tây có các xa van và đồng bằng lớn, thích hợp cho nông nghiệp song khô hơn so với phía đông. Nhiều khối núi giàu quặng nằm tại duyên hải phía tây.

Diahot là sông dài nhất tại Nouvelle-Calédonie, có chiều dài khoảng 100 km. Lưu vực của sông rộng 620 km² và mở theo hướng tây bắc đến vịnh d’Harcourt, chảy hướng về đỉnh phía bắc của đảo dọc theo dốc phía tây của núi Panié. Hầu hết đảo có rừng thường xanh ẩm ướt bao phủ, còn xa van chiếm ưu thế tại những vùng thấp. Phá Nouvelle-Calédonie có tổng diện tích 24.000 km², là một trong các phá lớn nhất thế giới, bao quanh nó là rạn san hô Nouvelle-Calédonie.

New Calesdonia có khí hậu nhiệt đới, mùa nóng ẩm kéo dài từ tháng 11 đến tháng 3 với nhiệt độ từ 27 °C đến 30 °C, mùa mát khô kéo dài từ tháng 6 đến tháng 8 với nhiệt độ từ 20 °C đến 23 °C. Khí hậu nhiệt đới tại đây ôn hoà cao độ nhờ ảnh hưởng từ đại dương và gió mậu dịch làm giảm độ ẩm vốn có thể lên đến gần 80%. Nhiệt độ trung bình năm là 23 °C, các cực độ về nhiệt độ là 2,3 °C và 39,1 °C. Dữ liệu về lượng mưa cho thấy có khác biệt lớn trên đảo chính, lượng mưa 3.000 mm ghi nhận tại Galarino cao gấp ba lần trung bình tại duyên hải phía tây. Ngoài ra còn có các giai đoạn khô hạn do tác động của El Niño. Từ tháng 12 đến tháng 4, áp thấp và bão nhiệt đới có thể gây ra gió có tốc độ lên đến 100 km/h, giật 250 km/h và mưa rất lớn.

Bản đồ vệ tinh New Caledonia

Bản đồ vệ tinh New Caledonia
Bản đồ vệ tinh New Caledonia. Nguồn: gisgeography.com

Xem thêm

5/5 - (2 bình chọn)

Viết một bình luận


Bài viết mới