Trong bài viết này, các bạn hãy cùng Địa Ốc Thông Thái tìm hiểu một cách chi tiết về dân tộc Chứt nhé. Các nội dung bao gồm phong tục tập quán, hoạt động sản xuất, văn hóa, trang phục, tổ chức cộng đồng, tập tục cưới xin, sinh đẻ, ma chay của người Chứt.
Tổng quan về người Chứt
- Tên gọi khác: Rục, Sách, A rem, Mày, Mã liềng, Tu vang, Pa leng, Xe lang, Tơ hung, Cha cú, Tắc cực, U mo, Xá lá vàng.
- Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Việt – Mường (ngữ hệ Nam Á).
- Dân số: 7.513 người (Tổng điều tra dân số 2019).
- Cư trú: Phần đông cư trú ở huyện Minh Hóa và Tuyên Hóa (Quảng Bình).
- Lịch sử: Quê hương xưa của người Chứt thuộc địa bàn cư trú của người Việt ở hai huyện Bố Trạch và Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Vì nạn giặc giã, thuế khoá nặng nề nên họ phải chạy lên nương náu ở vùng núi, một số dần dần chuyển sâu vào vùng phía tây thuộc hai huyện Minh Hoá và Bố Trạch tỉnh Quảng Bình. Theo gia phả của một số dòng họ người Việt trong vùng thì các nhóm Rục, Sách cư trú tại vùng núi này ít nhất đã được trên 500 năm nay.
Trang phục truyền thống của dân tộc Chứt
Người Chứt không biết dệt vải, vải mặc mua hoặc trao đổi với người Việt, người Lào trong vùng giáp biên. Mùa hè, nam giới đóng khố, cởi trần. Phụ nữ mặc váy. Mùa đông, họ mặc áo làm bằng vỏ cây. Hiện nay đồng bào ăn mặc giống như người Việt.
Nhà của người Chứt
Họ quen ở trong các túp lều dùng dây buộc, dùng cột ngoãm hay ở trong các hang đá, mái đá. Cho đến trước năm 1954 các nhóm Rục, Arem chủ yếu vẫn sống trong các hang đá, mái đá. Ngày nay, họ sống tập trung ở các bản nhỏ trong các thung lũng. Nhà cửa đã khang trang hơn trước.
Hầu hết đã định canh định cư, nhưng các làng người Chứt thường tản mạn. Nhà cửa không bền vững.
Hoạt động sản xuất – kinh tế
Người Chứt sống bằng nông nghiệp nương rẫy du canh và săn bắn hái lượm. Trừ nhóm Sách sống bằng nông nghiệp còn các nhóm khác hái lượm và săn bắn chiếm vị trí quan trọng, thậm chí là nguồn sống chính trong những năm mất mùa. Các giống cây trồng chính là ngô, sắn, đỗ, lúa.
Công cụ sản xuất gồm: rìu, rựa, gậy chọc lỗ, nơi làm ruộng có thêm cày, bừa. Từ khi định cư, người Chứt đã nuôi trâu, bò phục vụ cày bừa, làm sức kéo. Ðan lát chủ yếu do nhu cầu tiêu dùng trong gia đình. Ðôi nơi họ biết thêm nghề rèn dao, rìu.
Phương tiện vận chuyển
Phổ biến là gùi có dây đeo vai, vác hoặc người kéo.
Tổ chức cộng đồng người Chứt
Ngày nay người Chứt thường nhận mình là họ Cao, họ Ðinh… Mỗi dòng họ đều có người tộc trưởng, có bàn thờ tổ tiên chung. Trong làng, tộc trưởng nào có uy tín lớn hơn thì được suy tôn làm trưởng làng.
Quan hệ xã hội
Người Chứt gọi làng là Cà Vên. Mỗi làng thường chỉ có dăm bảy hoặc mười gia đình của một dòng họ cư trú. Ðôi khi các gia đình trong một họ lại cư trú ở nhiều làng khác nhau. Ðứng đầu mỗi làng là Pừ Cà Vên. Ông ta giữ luôn cả vai trò tôn giáo.
Sinh hoạt tập thể, quan trọng nhất trong làng là vào những dịp lễ tết nông nghiệp.Gia đình nhỏ phụ quyền là hình thức phổ biến nhất. Mỗi gia đình chỉ gồm vợ, chồng và con cái chưa lấy vợ, chồng.
Văn hóa nghệ thuật
Kho tàng văn nghệ dân gian của người Chứt khá phong phú. Làn điệu dân ca Kà-tưm, Kà-lềnh được nhiều người ưa thích. Vốn truyện cổ dồi dào gồm nhiều đề tài khác nhau. Nhạc cụ có khèn bè, đàn ống lồ ô loại cho nam và loại cho nữ, sáo 6 lỗ…
Văn hóa ẩm thực – món ăn tiêu biểu
Lương thực chủ yếu là ngô, sắn. Ngày ăn hai bữa trưa và tối. Những năm mất mùa, họ phải ăn bột báng (bột nhúc) đồ thay cơm quanh năm.
Phong tục hôn nhân của người Chứt
Quan hệ vợ chồng của người Chứt bền vững, hiếm xảy ra bất hòa.
Phong tục cưới hỏi của người Chứt
Trai gái đến tuổi trưởng thành, được tự do tìm hiểu yêu đương. Trước khi cưới, nhà trai phải chọn ông mối, đi dạm hỏi vài lần. Lễ cưới được tổ chức bên nhà gái, sau đó mới đón dâu. Lễ vật quan trọng nhất thiết phải có thịt khỉ sấy khô. Người Chứt không có tục ở rể.
Tục sinh đẻ của người Chứt
Sắp đến ngày ở cữ, người chồng thường dựng một cái lều nhỏ cho vợ ở ngoài rừng. Thỉnh thoảng anh ta đến thăm nom, tiếp tế lương thực và đồ ăn uống cho vợ. Phụ nữ quen đẻ đứng và tự xoay sở lấy hết thảy mọi việc. Ðẻ xong, người sản phụ tự mình nhóm lửa, đốt nóng một hòn đá cuội để sẵn rồi dội nước lã vào cho bốc hơi nóng để xông khói. Sau 7 ngày, người chồng mới đến đón vợ con vào nhà.
Phong tục tang ma của người Chứt
Việc ma chay của người Chứt đơn giản, nhóm Sách có tiếp thu ảnh hưởng của người Kinh. Theo nếp chung, tang gia tổ chức cúng bái 2-3 ngày, rồi đưa người chết đi chôn. Nhà giàu làm quan tài bằng thân cây khoét rỗng; nhà nghèo chỉ bó người chết bằng vỏ cây. Mộ được đắt thành nấm đất, không có nhà mồ bên trên. Sau 3 ngày, tộc trưởng làm lễ gọi hồn cho người chết về ngụ tại bàn thờ tổ tiên ở nhà tộc trưởng, từ đó người thân không lai vãng chăm sóc mộ nữa.
Phong tục thờ cúng của người Chứt
Tổ tiên được thờ tại nhà tộc trưởng. Khi tộc trưởng chết, việc thờ cúng chuyển sang người em trai kế. Khi nào các thế hệ trên không còn ai thì việc thờ cúng mới chuyển sang cho người ở thế hệ dưới.
Tin vào các loại ma rừng, ma suối, thổ công, ma bếp…. trong đó quan trọng nhất là ma làng.
Các nghi lễ nông nghiệp thường được thực hiện như lễ xuống giống, lễ sau gieo hạt, lễ cúng hồn lúa, lễ ăn mừng được mùa.
Lễ hội và vui chơi của người Chứt
Trong các dịp lễ tết, trẻ em chơi cầu lông làm bằng lông gà, đánh găng, người lớn thổi sáo, hát hò.