Bản đồ phường Hạ Long mới, tỉnh Quảng Ninh sau sáp nhập 2025

Bản đồ phường Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh mới sau sáp nhập
Bản đồ phường Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh mới sau sáp nhập 2025

Hạ Long (trước năm 1994 là thị xã Hồng Gai) là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam. Thành phố được đặt theo tên của vịnh Hạ Long, vịnh biển nằm ở phía nam thành phố và là một di sản thiên nhiên nổi tiếng của Việt Nam.

Thành phố Hạ Long được thành lập ngày 27 tháng 12 năm 1993 trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hồng Gai. Ngày 10 tháng 10 năm 2013, thành phố được công nhận là đô thị loại I.

Trước đây, địa giới hành chính trên đất liền của thành phố bị chia tách bởi vịnh Cửa Lục, thành 2 khu tương ứng với 2 bán đảo: Bãi Cháy và Hòn Gai, khu vực phía bắc vịnh khi đó thuộc địa phận huyện Hoành Bồ. Cầu Bãi Cháy (trước năm 2006 là bến phà Bãi Cháy) là tuyến giao thông duy nhất kết nối trực tiếp hai bên bờ của thành phố lúc bấy giờ. Ngày 1 tháng 1 năm 2020, sau khi sáp nhập với huyện Hoành Bồ, Hạ Long trở thành thành phố thuộc tỉnh có diện tích lớn nhất Việt Nam, địa giới hành chính trên đất liền của thành phố trở thành một khối.

Thông tin tổng quan:
Dân số:322.710 người (1/4/2019)
Diện tích:1.119,12 km²
Mật độ:288 người/km²
Trụ sở UBND:2 Bến Đoan, phường Hồng Gai
Thành lập:1993

Có thể bạn quan tâm: Bản đồ Thành phố Hạ Long trước và sau sáp nhập 2025

Các xã phường mới sau sáp nhập 2025: Các xã phường cũ trước sáp nhập:

Bản đồ online phường Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh online

Bạn có thể nhấn vào để xem bản đồ toàn màn hình.

Nguồn dữ liệu ranh hành chính được cập nhật và tổng hợp từ nhiều nguồn bao gồm OpenStreetMap; cộng đồng GIS; các diễn đàn trắc địa, bản đồ và quản lý đất đai tại Việt Nam. Bản đồ này mang tính tham khảo – học tập, không phải là dữ liệu chính thức từ cơ quan nhà nước có thầm quyền. Mọi góp ý, vui lòng để lại bình luận hoặc gửi email. Xin cảm ơn!

Bạn có thể tải về dữ liệu ranh hành chính của phường Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh ở bên dưới với 2 định dạng KML hoặc GeoJSON để xem trên Google My Maps, Google Earth, QGIS hoặc các ứng dụng khác.

Tải về File KML bản đồ outline phường Hạ Long ₫ 20,000

Sau khi thanh toán thành công, link tải file sẽ được gửi đến email của bạn.

Tải về File GeoJson bản đồ outline phường Hạ Long ₫ 20,000

Sau khi thanh toán thành công, link tải file sẽ được gửi đến email của bạn.

File vector bản đồ outline phường Hạ Long sau sáp nhập

Bản đồ outline phường Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh
Tải về File SVG bản đồ outline phường Hạ Long ₫ 30,000

Sau khi thanh toán thành công, link tải file sẽ được gửi đến email của bạn.

Lịch sử hình thành

Người tiền sử đã xuất hiện trên Vịnh Hạ Long từ rất lâu. Qua nhiều năm khảo cổ, các nhà nghiên cứu kết luận rằng trong suốt tiến trình sơ sử, ba nền văn hóa mang tên Soi Nhụ-Cái Bèo-Hạ Long trên khu vực vịnh cho thấy vịnh Hạ Long và khu vực lân cận một thời từng là cái nôi văn hóa của nhân loại.

Vùng đất trung tâm của thành phố Hạ Long ngày nay, xưa kia chỉ là một làng chài ven biển, có tên là Bãi Hàu.

Đến đầu thời Nguyễn được đổi tên thành xã Mẫu Lệ. Về sau, hình thành thêm các xã Hà Lầm, Lũng Phong, Giang Võng và Trúc Võng. Các xã phường phía Đông và phía Tây của thành phố hiện nay, trước đó đều thuộc huyện Hoành Bồ…

Năm 1883, Pháp chiếm vùng vịnh Hạ Long, họ tiến hành khai thác than ở các mỏ trên bờ vịnh. Có ý kiến cho rằng do trên các đảo ở đây có nhiều cây gai nên người Pháp gọi là lle des brouilles, phiên âm là Hon Gai hay Hon Gay, sau đổi thành Hòn Gai. Còn theo các nhà nghiên cứu thì Hòn Gai là cách gọi lệch của người Pháp từ địa danh Hồng Hải (tức Biển Đỏ) lúc bấy giờ. Do tiếng Pháp âm H là âm câm. Nên đọc là Hongay hay Hòn Gai sau này. Lúc bấy giờ, Hòn Gai là một đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Quảng Yên.

Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, thị xã Hồng Gai trở thành thủ phủ của vùng mỏ. Cuối năm 1946, người Pháp tái chiếm Hòn Gai.

Sau hiệp định Genève 1954, thị xã Hồng Gai lại là thủ phủ của khu Hồng Quảng.

Ngày 17 tháng 6 năm 1958, xã Thành Công thuộc huyện Hoành Bồ được sáp nhập vào thị xã Hòn Gai.

Ngày 30 tháng 10 năm 1963, tỉnh Hải Ninh và khu Hồng Quảng hợp nhất thành tỉnh Quảng Ninh, từ đó Hồng Gai trở thành thủ phủ của Quảng Ninh.

Ngày 26 tháng 9 năm 1966, chuyển xã Tân Hải về huyện Cẩm Phả quản lý.

Thị xã Hồng Gai là trung tâm cung cấp than cho toàn bộ ngành công nghiệp của Miền Bắc xã hội chủ nghĩa, là cửa ngõ nối với Trung Quốc nên trở thành trọng điểm đánh phá ác liệt của Mỹ trong chiến tranh. Bến phà Bãi Cháy (ngừng hoạt động năm 2007, nay được thay thế bằng cầu Bãi Cháy) đã từng là đầu mối giao thông quan trọng, bị bom Mỹ hủy diệt nhiều lần, 3 lần danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Sau năm 1975, thị xã Hồng Gai có 4 phường: Bạch Đằng, Hạ Long, Trần Hưng Đạo, Yết Kiêu; 5 thị trấn: Bãi Cháy, Cao Thắng, Cọc 5, Hà Lầm, Hà Tu và 3 xã: Hùng Thắng, Thành Công, Tuần Châu.

Ngày 16 tháng 1 năm 1979, chia thị trấn Bãi Cháy thành 2 thị trấn: Bãi Cháy và Giếng Đáy.

Ngày 10 tháng 9 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 63-HĐBT. Theo đó:

  • Chia thị trấn Hà Tu thành 2 phường Hà Tu và Hà Phong.
  • Chia thị trấn Hà Lầm thành 3 phường Hà Lầm, Hà Trung và Hà Khánh.
  • Chia thị trấn Cọc 5 thành 2 phường Hồng Hà và Hồng Hải.
  • Chia thị trấn Cao Thắng thành 2 phường: Cao Thắng và Cao Xanh.
  • Chia thị trấn Giếng Đáy thành 2 phường Giếng Đáy và Hà Khẩu.
  • Chuyển thị trấn Bãi Cháy thành phường Bãi Cháy.

Đầu năm 1993, thị xã Hồng Gai có 16 phường: Bạch Đằng, Bãi Cháy, Cao Thắng, Cao Xanh, Giếng Đáy, Hà Khánh, Hà Khẩu, Hà Lầm, Hạ Long, Hà Phong, Hà Trung, Hà Tu, Hồng Hà, Hồng Hải, Trần Hưng Đạo, Trần Phú và 3 xã: Hùng Thắng, Thành Công, Tuần Châu.

Ngày 27 tháng 12 năm 1993, Chính phủ bàn hành Nghị định số 102-CP, thành lập thành phố Hạ Long trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hồng Gai.

Ngày 1 tháng 8 năm 1994, sáp nhập xã Thành Công vào phường Cao Xanh.

Ngày 28 tháng 10 năm 1996, phường Hạ Long tiến nhận tên cũ “Hồng Gai” khi thành phố còn là thị xã, đổi tên thành phường Hồng Gai.

Ngày 16 tháng 8 năm 2001, chuyển hai xã Việt Hưng và Đại Yên thuộc huyện Hoành Bồ về thành phố Hạ Long quản lý.

Ngày 26 tháng 9 năm 2003, thành phố Hạ Long được công nhận là đô thị loại II.

Ngày 1 tháng 10 năm 2003, chuyển hai xã Hùng Thắng và Tuần Châu thành 2 phường có tên tương ứng.

Ngày 5 tháng 2 năm 2010, chuyển hai xã Đại Yên và Việt Hưng thành 2 phường có tên tương ứng.

Ngày 10 tháng 10 năm 2013, Chính phủ ban hành Quyết định số 1838/QĐ-TTg công nhận thành phố Hạ Long là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Quảng Ninh.

Đến cuối năm 2018, thành phố Hạ Long có 20 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 20 phường: Bạch Đằng, Bãi Cháy, Cao Xanh, Cao Thắng, Đại Yên, Giếng Đáy, Hà Khánh, Hà Khẩu, Hà Lầm, Hà Phong, Hà Trung, Hà Tu, Hồng Gai, Hồng Hà, Hồng Hải, Hùng Thắng, Trần Hưng Đạo, Tuần Châu, Việt Hưng, Yết Kiêu.

Ngày 17 tháng 12 năm 2019, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 837/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2019–2021 thuộc tỉnh Quảng Ninh (có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2020). Theo đó:

  • Sáp nhập toàn bộ 843,54 km² diện tích tự nhiên và 51.003 người của huyện Hoành Bồ (gồm thị trấn Trới và 12 xã: Bằng Cả, Dân Chủ, Đồng Lâm, Đồng Sơn, Hòa Bình, Kỳ Thượng, Lê Lợi, Quảng La, Sơn Dương, Tân Dân, Thống Nhất, Vũ Oai) vào thành phố Hạ Long.
  • Thành lập phường Hoành Bồ thuộc thành phố Hạ Long trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị trấn Trới.

Ngày 28 tháng 9 năm 2024, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1199/NQ-UBTVQH15 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã của tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2023 – 2025 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 11 năm 2024). Theo đó, sáp nhập phường Yết Kiêu vào phường Trần Hưng Đạo.

Thành phố Hạ Long có 20 phường và 12 xã như hiện nay.

Thành phố Hạ Long nằm ở trung tâm của tỉnh Quảng Ninh, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 165 km về phía đông, cách trung tâm thành phố Hải Phòng 70 km về phía đông bắc và cách thành phố biên giới Móng Cái 184 km về phía tây nam. Thành phố có vị trí địa lý:

Thành phố Hạ Long có diện tích 1.119,36 km², dân số năm 2018 là 300.267 người, mật độ dân số đạt 268 người/km². Diện tích tự nhiên của thành phố bao gồm phần diện tích trên đất liền và hàng trăm đảo đá vôi trên các vịnh Hạ Long, Bái Tử Long và Lan Hạ. Như vậy, hiện nay Hạ Long là thành phố trực thuộc tỉnh có diện tích lớn nhất cả nước, lớn hơn diện tích 3 tỉnh nhỏ nhất là Bắc Ninh, Hà Nam, Hưng Yên và xấp xỉ diện tích của thành phố trung ương Đà Nẵng. Theo thống kê năm 2019, dân số thành phố là 322.710 người.

Thành phố Hạ Long có địa hình đa dạng và phức tạp, đây cũng là một trong những khu vực hình thành lâu đời nhất trên lãnh thổ Việt Nam, địa hình ở đây bao gồm cả đồi núi, thung lũng, vùng ven biển và hải đảo, được chia thành 3 vùng rõ rệt gồm có: Vùng đồi núi bao bọc phía bắc và đông bắc, vùng ven biển ở phía nam quốc lộ 18A cuối cùng là vùng hải đảo.

Trong đó, vùng đồi núi bao bọc phía bắc và đông bắc, với độ cao trung bình từ 150 mét đến 250 mét, chạy dài từ Yên Lập đến Hà Tu, đỉnh cao nhất là 504 mét. Dãy đồi núi này thấp dần về phía biển, độ dốc trung bình từ 15-20%, xen giữa là các thung lũng nhỏ hẹp. thứ hai là vùng ven biển ở phía nam quốc lộ 18A, độ cao trung bình từ 0.5 đến 5 mét. cuối cùng là vùng hải đảo bao gồm toàn bộ vùng vịnh, với gần hòn đảo lớn nhỏ, chủ yếu là đảo đá. Kết cấu địa chất của thành phố Hạ Long chủ yếu là đất sỏi sạn, cuội sỏi, sa thạch, cát sét… ổn định và có cường độ chịu tải cao, từ 2.5 đến 4.5 kg/cm², thuận lợi cho việc xây dựng các công trình. Khoáng sản chủ yếu là than đá và nguyên vật liệu xây dựng .

Thành phố Hạ Long thuộc vùng khí hậu ven biển, với 2 mùa rõ rệt là mùa đông và mùa hè.

Nhiệt độ trung bình hằng năm là 23.7 °C. Mùa đông thường bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, nhiệt độ trung bình là 16.7 °C rét nhất là 5 °C. Mùa hè từ tháng 5 đến tháng 10. nhiệt độ trung bình vào mùa hè là 28.6 °C, nóng nhất có thể lên đến 39 °C.

Lượng mưa trung bình một năm của Hạ Long là 1832 mm, phân bố không đều theo 2 mùa. Mùa hè, mưa từ tháng 5 đến tháng 10, chiếm từ 80- 85% tổng lượng mưa cả năm. Lượng mưa cao nhất vào tháng 7 và tháng 8, khoảng 350mm. Mùa đông là mùa khô, ít mưa, từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, chỉ đạt khoảng 15-20% tổng lượng mưa cả năm. Lượng mưa ít nhất là tháng 12 và tháng 1, chỉ khoảng từ 4 đến 40 mm .

Độ ẩm không khí trung bình hằng năm là 84%. Đồng thời khí hậu ở Hạ Long có hai loại hình gió mùa hoạt động khá rõ rệt là gió Đông Bắc về mùa đông và gió Tây Nam về mùa hè. Hạ Long là vùng biển kín nên ít chịu ảnh hưởng của những cơn bão lớn, sức gió mạnh nhất trong các cơn bão thường là cấp 9, cấp 10.

Các sông chính chảy qua địa phận thành phố gồm có các sông Diễn Vọng, Vũ Oai, Man, Trới. Cả bốn sông này đều đổ vào vịnh Cửa Lục rồi chảy ra vịnh Hạ Long. Riêng sông Míp đổ vào hồ Yên Lập. Các con suối chảy dọc sườn núi phía nam thuộc phường Hồng Gai, Hà Tu, Hà Phong. Cả sông và suối ở thành phố Hạ Long đều nhỏ, ngắn, lưu lượng nước không nhiều. Vì địa hình dốc nên khi có mưa to, nước dâng lên nhanh và thoát ra biển cũng nhanh.

Chế độ thủy triều của vùng biển Hạ Long, chịu ảnh hưởng trực tiếp của chế độ nhật triều vịnh Bắc Bộ, biên độ dao động thủy triều trung bình là 3.6m. Nhiệt độ nước biển ở lớp bề mặt trung bình là 18 °C đến 30.8 °C, độ mặn nước biển trung bình là 2,16% (vào tháng 7) cao nhất là 3,24% (vào tháng 2 và 3 hằng năm).

Tài nguyên rừng

Tài nguyên rừng của vịnh Hạ Long rất phong phú, đặc trưng với tổng số loài thực vật sống trên các đảo, núi đá với hơn 1.000 loài. Một số quần xã các loài thực vật khác nhau bao gồm các loài ngập mặn, các loài thực vật ở bờ cát ven đảo, các loài mọc trên sườn núi và vách đá, trên đỉnh núi hoặc mọc ở của hang hay khe đá. Theo số liệu thống kê tính đến hết năm 2009, trên địa bàn thành phố có tổng diện tích đất rừng là 5.862,08ha/tổng diện tích thành phố là 27.153,40 ha. Tỷ lệ che phủ của rừng đạt: 21,58%. Trong đó rừng trồng 5.445,69ha và rừng tự nhiên 416,39ha (bao gồm: rừng gỗ 27,94ha, rừng tre nứa 17,31ha, rừng ngập mặn 371,14ha).

Đối với địa bàn thành phố Hạ Long bao gồm chủ yếu là than đá và nguyên vật liệu xây dựng. Tổng trữ lượng than đá đã thăm dò được đến thời điểm này là trên 530 triệu tấn, nằm ở phía bắc và đông bắc Thành phố trên địa bàn các phường Hà Khánh, Hà Lầm, Hà Trung, Hà Phong, Hà Tu (Đại Yên và Việt Hưng nằm trong vùng cấm hoạt động khoáng sản). Loại than chủ yếu là than antraxit và bán antraxit. Bên cạnh đó là trữ lượng sét phục vụ làm nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng tại vùng Giếng Đáy, theo đánh giá triển vọng trữ lượng hiện có khoảng trên 39 triệu tấn. Ngoài ra là đá vôi phục vụ làm nguyên liệu xi măng và vật liệu xây dựng, tập trung tại phường Hà Phong và khu vực Đại Yên, theo đánh giá trữ lượng hiện còn khoảng trên 15 triệu tấn có thể khai thác được. Bên cạnh đó, còn có các khu vực có thể khai thác cát xây dựng tại ven biển phường Hà Phong, Hà Khánh, khu vực sông Trới tiếp giáp Hà Khẩu, Việt Hưng… tuy nhiên trữ lượng là không đáng để (đến nay chưa có đánh giá thống kê cụ thể).

Do lợi thế có vịnh Hạ Long 2 lần được công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới. Với tổng diện tích 1.553 km² bao gồm 1969 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó 989 đảo có tên và 980 đảo chưa có tên. Vùng Di sản được Thế giới công nhận có diện tích 434 km² bao gồm 775 đảo, như một hình tam giác với ba đỉnh là đảo Đầu Gỗ (phía tây), hồ Ba Hầm (phía nam) và đảo Cống Tây (phía đông). Với nhiều hang động đẹp và huyền ảo như hang Bồ Nâu, Trinh Nữ, Sửng Sốt, Đầu Gỗ, Thiên Cung, Tam Cung, Mê Cung đã đưa danh tiếng của vịnh Hạ Long là một trong những điểm du lịch nổi tiếng trên toàn thế giới… Bên cạnh đó, vùng biển Hạ Long cũng rất phong phú về các loại động vật và thực vật dưới nước. Theo nghiên cứu có 950 loài cá, 500 loài động vật thân mềm và 400 loài giáp xác, trong đó có nhiều loài hải sản có giá trị kinh tế cao như cá thu, cá nhụ, cá song, cá hồi, cá tráp, cá chim và tôm, cua, mực, ngọc trai, bào ngư, sò huyết… 117 loài san hô thuộc 40 họ, 12 nhóm.

Tài nguyên nước mặt tại thành phố Hạ Long tập trung tại các khu vực hồ Yên Lập (tổng dung tích chứa của cả hồ bao gồm cả huyện Yên Hưng, Hoành Bồ khoảng 107.200.000 m³ (thời điểm đo trong tháng 8/2010)), Hồ Khe Cá tại phường Hà Tu… đây là nguồn cung cấp lớn nước tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra là các hồ điều hòa tạo cảnh quan cho thành phố như: Yết Kiêu, Ao Cá, Kênh Đồng…

Thành phố Hạ Long có 32 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 20 phường: Bạch Đằng, Bãi Cháy, Cao Thắng, Cao Xanh, Đại Yên, Giếng Đáy, Hà Khánh, Hà Khẩu, Hà Lầm, Hà Phong, Hà Trung, Hà Tu, Hoành Bồ, Hồng Gai, Hồng Hà, Hồng Hải, Hùng Thắng, Trần Hưng Đạo, Tuần Châu, Việt Hưng và 12 xã: Bằng Cả, Dân Chủ, Đồng Lâm, Đồng Sơn, Hòa Bình, Kỳ Thượng, Lê Lợi, Quảng La, Sơn Dương, Tân Dân, Thống Nhất, Vũ Oai.

Cơ cấu kinh tế của thành phố được xác định là: Công nghiệp – du lịch, Dịch vụ, Thương mại, Nông – lâm nghiệp và hải sản. Năm 2014, GDP của thành phố đạt 22000 tỷ đồng chiếm 41% toàn tỉnh (trong đó Công nghiệp & xây dựng chiếm 31%, Dịch vụ & du lịch chiếm 53%), tổng thu ngân sách chiếm 69,3% toàn tỉnh. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân là 12%/năm.

Theo quy hoạch, thành phố Hạ Long hình thành 5 vùng kinh tế:

  • Vùng 1: Thương mại, dịch vụ gồm các phường Yết Kiêu, Trần Hưng Đạo, Hồng Gai, Bạch Đằng, Hồng Hải, Hồng Hà, Cao Xanh, Cao Thắng
  • Vùng 2: Công nghiệp, lâm nghiệp gồm các phường Hà Trung, Hà Tu, Hà Khánh, Hà Lầm, Hà Phong
  • Vùng 3: Khu công nghiệp, cảng biển gồm phường Bãi Cháy, Việt Hưng, Hà Khẩu, Giếng Đáy
  • Vùng 4: Du lịch, thương mại gồm phường Bãi Cháy, Hùng Thắng, Tuần Châu
  • Vùng 5: Nông, lâm, ngư nghiệp gồm phường Đại Yên và Việt Hưng

Thành phố có 1470 cơ sở sản xuất Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp bao gồm các ngành khai thác chế biến than, vật liệu xây dựng, cơ khí, chế biến gỗ, lương thực thực phẩm, may mặc. Có 3 khu công nghiệp tập trung là Cái Lân, Việt Hưng và Hà Khánh, 4 cảng lớn là Cửa Dứa, Cái Lân, Hồng Gai, B12 và 11 cảng nhỏ.

Khai thác than được xem một thế mạnh của thành phố với nhiều mỏ lớn như Hà Tu, Hà Lầm, Tân Lập, Núi Béo, với lượng than khai thác mỗi năm ước đạt trên 10 triệu tấn. Gắn liền với các mỏ là các nhà máy sàng tuyển, cơ khí các xí nghiệp vận tải và bến cảng. Hạ Long phát triển mạnh công nghiệp đóng tàu, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến thực phẩm hải sản. Nhà máy đóng tàu Hạ Long có thiết kế đóng tàu dưới 53.000 tấn, nhà máy nhiệt điện Quảng Ninh có tổng công suất 1.200 MW. Hạ Long còn có nhiều mỏ đất sét rất tốt, với khoảng 6 nhà máy sản xuất gạch ngói chất lượng cao, cung cấp cho trong và ngoài tỉnh, có một phần xuất khẩu. Cảng quốc gia Cái Lân là cảng nước sâu của thành phố. Nhiều thương hiệu nổi tiếng trong nước như: Viglacera Hạ Long, Công ty Dầu thực vật Cái Lân (Neptune, Cái Lân), Bột mì Vima Flour (Hoa Ngọc Lan), và Bia Hạ Long.

Ngư nghiệp là một thế mạnh với nhiều chủng loại hải sản, và yêu cầu tiêu thụ lớn, nhất là phục vụ cho khách du lịch và cho xuất khẩu. Thành phố đã và đang đóng mới nhiều tàu thuyền lớn để chuyển ra đánh bắt tuyến ngoài khơi. Hàng xuất khẩu chủ yếu là than và hải sản, hàng nhập khẩu là xăng dầu, máy mỏ, sắt thép, phương tiện vận tải. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2002 đạt 160 triệu USD.

Phần lớn nguồn thu ngân sách của thành phố Hạ Long là từ xuất và nhập khẩu. Trong năm 2013, hơn 70% thu ngân sách từ thuế nhập và xuất khẩu. Bởi thế, nền kinh tế của Hạ Long phụ thuộc nhiều vào nền kinh tế toàn cầu và chịu ảnh hưởng bởi các điều kiện kinh tế vĩ mô trong khu vực và toàn cầu. Thu nhập bình quân của lao động thành phố Hạ Long tăng mạnh (khoảng 21%/năm) trong giai đoạn 2009-2013, đạt đỉnh điểm ở mức khoảng 53 triệu đồng vào năm 2013, gấp 1,6 lần thu nhập trung bình ở các tỉnh miền Bắc. Do kinh tế tăng trưởng nhanh, bình quân từ 13 đến 15%/năm nên “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội thành phố Hạ Long đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” xác định thu nhập bình quân đầu người ở thành phố Hạ Long (theo giá hiện hành) năm 2025 ước đạt 12.000 – 13.000 USD/năm.

Với lợi thế là đầu mối giao thông quan trọng, đường bộ, đường thủy, đường sắt, cảng biển, trải qua suốt lịch sử hình thành và phát triển hàng trăm năm, TP Hạ Long luôn khẳng định vị trí chiến lược quan trọng khu vực vùng duyên hải Bắc Bộ.

Mạng lưới giao thông trên địa bàn TP Hạ Long về đối ngoại và đối nội gồm các loại hình: Giao thông đường bộ, đường biển, đường sắt, đường sông và đường hàng không (thủy phi cơ). Theo đánh giá tại Đồ án điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển giao thông vận tải tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 thì các tuyến đường sắt, luồng đường thủy hiện tại vẫn đáp ứng được nhu cầu vận tải.

Hiện nay mạng lưới giao thông đến thành phố Hạ Long chủ yếu gồm 3 tuyến đường QL18, QL 279, đường tỉnh 337 với tổng chiều dài trên 50 km. Mạng lưới giao thông nội thị của TP Hạ Long có tổng chiều dài trên 380 km, trong đó gồm các đường trục chính, phố chính và các đường ngõ.

Hạ Long nằm chính giữa QL 18 nối từ sân bay quốc tế Nội Bài tới cửa khẩu Móng Cái đã và đang liên tục được nâng cấp, mở rộng do nhu cầu đi lại tăng rất nhanh. Điểm đầu của tuyến QL 279 nằm tại Ngã tư Ao Cá thuộc thành phố Hạ Long .

Hiện thành phố đã xây dựng xong đường cao tốc Hải Phòng – Hạ Long – Vân Đồn – Móng Cái; nâng cấp và mở rộng QL 18 đoạn Hạ Long – Mông Dương. Ngoài ra còn có dự án đường cao tốc Nội Bài – Bắc Ninh – Hạ Long đi qua đang được triển khải đầu tư xây dựng.

Cùng với đó, TP Hạ Long đầu tư xây dựng mới cầu nối khu Hà Khánh với tỉnh lộ 328, nằm trên tuyến đường trục chính Hà Tu – Hoành Bồ và tuyến đường trục chính Hà Tu – Hoành Bồ để kết nối tuyến đường vành đai tỉnh lộ 328; nghiên cứu, đầu tư xây dựng tuyến đường bao biển kết nối Hạ Long với Cẩm Phả; nâng cấp QL18 đoạn từ nút giao với đường cao tốc đến ngã 3 Hùng Thắng từ 4 làn xe lên 8 làn xe; triển khai giai đoạn 2 tuyến đường nối từ Khu công nghiệp Việt Hưng với QL 18 đi qua kho xăng dầu B12; đầu tư xây dựng cải tạo nút, mở rộng giao thông tại ngã 3 Hà Khẩu nhằm đảm bảo an toàn giao thông khu vực và tránh ùn tắc giao thông.

Hiện nay TP Hạ Long đã hoàn thiện nút giao thông Cái Dăm (Ngã 5 giữa các trục đường lớn là đường Hạ Long – Bãi Cháy – Hoàng Quốc Việt); đường vào khu công nghiệp Việt Hưng; hoàn thiện dự án Cải tạo nâng cấp đường Trần Phú (336); mở rộng nâng cấp nút giao thông Loong Toòng; mở rộng đường Trần Hưng Đạo; và đang nghiên cứu cải tạo nút giao thông Kênh Liêm và đường Kênh Liêm.

Thành phố có tiềm năng rất lớn để phát triển giao thông thủy. Cảng Cái Lân có khả năng tiếp nhận 1 triệu tấn hàng hoá mỗi năm. Cảng xăng dầu B12 là cảng chuyên dùng (xăng, dầu) công suất khoảng 1 triệu tấn/năm, độ sâu bến 7-9m cho tàu 1 vạn tấn. Hệ thống đường ống dẫn dầu đi từ cảng B12 là hệ thống giao thông đường ống lớn nhất và duy nhất ở nước ta. Cảng Hòn Gai có thể đón tàu 1 vạn tấn vào sát bờ, các tàu lớn hơn có thể chuyển tải từ vùng cảng nổi trong vịnh.

Ông Đào Hồng Tuyển đã xây dựng xong các Cảng tàu du lịch quốc tế trên đảo Tuần Châu cùng với bến phà nối Tuần Châu với Cát Bà.

Việc phát triển về giao thông đường thủy cũng giúp giảm tải đối với giao thông đường bộ, vì vậy thành phố đang nghiên cứu đầu tư xây dựng một số cảng, bến du lịch trên địa bàn gồm: Huy động mọi nguồn lực để đầu tư xây dựng cảng Quốc tế và cảng tàu du lịch Hồng Gai để tăng cường vận tải đường biển, thu hút nhiều du khách của các nước trên thế giới; đầu tư, xây mới, cảng tàu khách du lịch Bến Đoan để khai thác tiềm năng du lịch và giữ chân du khách lưu trú lại thành phố; đầu tư hệ thống bến thuyền phục vụ du lịch…

Thành phố có những bãi đỗ cho sân bay trực thăng và thủy phi cơ. Hiện nay có máy bay trực thăng hàng tuần đưa khách đi du lịch từ Hà Nội tới Bãi Cháy và cảng tàu khách quốc tế Tuần Châu. Từ tháng 9/2014, Hàng không Hải Âu bắt đầu cung cấp dịch vụ bay thủy phi cơ bay 45 phút từ bến cảng Tuần Châu đến sân bay Nội Bài. Từ cuối năm 2018 đã có Sân bay quốc tế Vân Đồn đáp ứng nhu cầu cho người dân thành phố.

Tuyến đường sắt Quốc gia nối Yên Viên – Phả Lại – Hạ Long – Cái Lân đã và đang được nâng cấp xây dựng để đáp ứng nhu cầu vận tải hàng hóa từ Hà Nội tới Hạ Long và cảng Cái Lân.

Năm 2016, thành phố Hạ Long ngoài dân tộc Kinh chiếm đa số còn có 15 dân tộc khác gồm: Tày, Hoa, Cao Lan, Dao, Sán Dìu, Mường, Thái, Nùng, Hán, Thổ, PaKo, Sán Chỉ, Thanh Y, Thái Thổ, H Mông với 830 nhân khẩu sống chủ yếu ở các phường Hà Phong, Đại Yên, Việt Hưng, Hà Khánh. Dân số toàn thành phố năm 201

Vị trí địa lý phường Hạ Long

Bản đồ vị trí phường Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh mới
Vị trí phường Hạ Long bên trong tỉnh Quảng Ninh sau sáp nhập 2025

Thành phố Hạ Long nằm ở trung tâm của tỉnh Quảng Ninh, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 165 km về phía đông, cách trung tâm thành phố Hải Phòng 70 km về phía đông bắc và cách thành phố biên giới Móng Cái 184 km về phía tây nam. Thành phố có vị trí địa lý:

Bản đồ giao thông phường Hạ Long

Bản đồ giao thông phường Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh sau sáp nhập
Bản đồ phường Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh sau sáp nhập trên nền Open Street Map

Phường Hạ Long nhìn từ vệ tinh

Bản đồ vệ tinh phường Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh sau sáp nhập
Bản đồ phường Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh sau sáp nhập nhìn từ vệ tinh

Xem thêm

Bản đồ 34 tỉnh thành mới của Việt Nam sau sắp xếp 2025:
Để lại đánh giá của bạn

Viết một bình luận


Bài viết mới